Nhà Văn, Nhà Cách Mạng Trương Bảo Sơn Từ Trần...
Nhà văn lão thành Trương Bảo Sơn, và cũng là một nhà hoạt động cách mạng lâu năm, đã từ trần hôm 23-5-2010 tại Canada, thọ 96 tuổi.
Vài tiếng đồng hồ sau, cụ bà Trương Bảo Sơn cũng từ trần theo chồng.
Bản văn phân ưu do nhà văn Việt Hải phổ biến trên mạng đã viết:
“Nhận được tin buồn:
Nhà văn TRƯƠNG BẢO SƠN, Pháp danh NGUYÊN HIỂN, đã tạ thế lúc 2 giờ sáng ngày 23.05.2010, tại Institut Universitaire de Geriatrie de Montréal. Thượng thọ 96 tuổi.
Và Cụ bà TRƯƠNG BẢO SƠN, Khuê danh Nguyễn Nữ-Nghi, Pháp danh: NGUYÊN ĐẠO, đã tạ thế lúc 16 giờ chiều ngày 23.05.2010, tại Institut Universitaire de Gériatrie de Montréal, Thượng thọ 90 tuổi.”
Bản văn chia buồn ký tên nhiều nhà văn tên tuổi.
Cuộc đời nhà văn Trương Bảo Sơn có thể viết dài nhiều trang giấy, sau đây là tóm gọn vài chi tiết, dựa theo trang blog Quảng Ngãi Nghĩa Thục.
Ông tên thật là Trương Cam Bỉnh. Sinh ngày 02 tháng 03 năm 1916, tại Hà Nội (năm Kỷ Mão). Hoạt động cách mạng trong nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng dưới danh xưng Trương Bảo Sơn và văn hóa với bút hiệu Bảo Sơn. Ông còn mấy bút hiệu nữa như Cẩm Bình, Ngọc San, Trường Sơn nhưng ít dùng.
Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, ông Bảo Sơn bắt đầu bằng nghề dạy học, rồi viết văn, làm báo.
Sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền, ông và một số đồng chí trong nhóm VNQDĐ phải chạy qua Hồng Kông ẩn trốn trên núi Happy Valley... Năm 1953 ông lại cùng các thành viên trong VNQDĐ được lệnh đem gia đình di chuyển vào Nam để bảo toàn an ninh. Năm 1954, trong cuộc di cư ồ ạt để chia đôi đất nước, ông bà lại mở rộng vòng tay đón đại gia đình từ Bắc vào Nam, trong một căn nhà khiêm tốn tại Phú Nhuận, Sài Gòn.
Cuộc hôn nhân thứ nhất của ông với nhà văn Nguyễn Thị Vinh sinh được người con gái duy nhất là Trương Kim Anh. Con rể là Luật sư kiêm nhà thơ Dương Kiền. Có 4 cháu ngoại toàn con trai và đã có 3 cháu dâu với 7 chắt. Bốn cháu ngoại gồm có: Kỹ sư Dương Kim với vợ và 2 con, Bác sĩ Dương Khoa với vợ và 2 con, Kỹ sư Dương Khanh với vợ và 3 con và Nha sĩ Dương Kha...
Viết văn, ông chuyên dịch truyện ngoại quốc nhiều hơn là sáng tác. Đã in hàng chục tác phẩm.
- Từ năm 1940 đã từng gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng để chống thực dân Pháp.
- Từ năm 1945 đến 1946 ông cùng các đồng chí thành lập Đệ Tam chiến khu Việt Quốc và giữ chức vụ bí thư của chiến khu này.
- Năm 1946, trưởng phái đoàn Việt Quốc hòa giải với Việt Minh tại Vĩnh Yên sau khi chính phủ liên hiệp Quốc Cộng được thành lập.
- Từ cuối năm 1946 đến năm 1952 ông lưu vong ra hải ngoại (Trung Hoa rồi Hồng Kông) tham gia mặt trận Quốc Gia Thống Nhất của Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Tường Tam tại Thượng Hải.
- Năm 1960 ông cùng với Nguyễn Tường Tam tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Đoàn Kết. Tham gia ngày 11-11-1960, bị bắt tù 3 năm và bị Tòa án quân sự kết án 5 năm lưu đày ra Côn Đảo năm 1963. Được tự do sau vụ đảo chánh 1-11-63.
- Năm 1964 ông đứng ra thành lập và làm tổng thư ký Quốc Dân Đảng biệt bộ Nguyễn Tường Tam, làm tổng thư ký hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Dân Quyền Việt Nam, tổ chức phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu và độc tài quân phiệt…
- Năm 1978 ông vượt biển tới Pulau Bidong (Mã Lai) và định cư tại Gia Nã Đại từ 1979.