2
Chàng Billy Faulkner vừa mới bỏ trường lớp, chưa kịp đi hoang, thì cuộc Đệ Nhất Thế Chiến nổ ra. Quá mê mẩn với giấc mơ hoành tráng, trở thành phi công bay trên vùng trời Đức, chàng làm đơn nhập ngũ, và được đưa tới Không Lực Hoàng Gia, The Royal Air Force. Nơi đây đang quá cần ba thứ nhân lực mới tinh này, thế là chàng bèn được đưa qua Canada để thực tập. Thảm một nỗi, chưa hết khoá học đầu, chưa bay mình ên, dù chỉ một lần, chiến tranh đà chấm dứt!
Chàng trở lại Oxford, diện đồ bay Không Lực Hoàng Gia, cố sửa giọng đúng điệu dân Ăng Lê, chân đi hơi cà nhắc một tí. Một tai nạn nho nhỏ trong khi bay, chàng giải thích. Với mấy cha thật thân, chàng thì thào, trong người tớ còn có một miểng kim loại!
Chàng đánh bóng những huyền thoại bay của mình trong nhiều năm. Và chỉ xuống giọng, khi trở thành nhân vật quốc gia, sợ rằng, lỡ có thằng khốn nào bới lông tìm vết, và nếu thế, thì nguy quá! [the risk of exposure loomed too large].
Thua thì thua cố níu lấy con: Khổ một nỗi, giấc mơ bay không từ bỏ chàng, mà chàng cũng chẳng thể từ bỏ được nó. Trong nhiều năm, cố dành dụm, vào năm 1933, chàng học bay trở lại, và sắm cho mình một chiếc phi cơ, đi một đường quảng cáo: "William Faulkner [nhà văn nhớn nổi tiếng, Famous Author] Air Circus" [Gánh xiệc bay].
Mấy tay chuyên viết tiểu sử coi đây là những trò ưa mút ngón tay, thèm nổi tiếng, thèm được người đời chú ý tới. Frederick R. Karl tin rằng, "chiến tranh đã biến đổi [Faulkner] thành một người kể chuyện, a storyteller, một tay phịa chuyện, a fictionist, và đây là một mốc rất quan trọng trong đời chàng".
Cái chuyện bịp, và bịp một cách thật là dễ dàng, những con người tốt bụng chung quanh, vào thời gian học Oxford, đã chứng tỏ cho Faulkner thấy rằng, đối trá có thể đánh bại sự thực. Và, hơn thế nữa, người ta có thể kiếm sống bằng điều quái dị, vượt ra khỏi đời thường, one can make a living out of the fantasy.
Trở về nhà, Faulkner sống một cuộc sống bồng bềnh, trôi nổi, a drifting life. Chàng mần thơ, về “cái rốn”, mượn chữ của nhóm TCT [Tạp Chí Thơ], để dịch từ “epience”; Faulkner khi dùng từ này, thực sự để chỉ những người đàn bà “eo hẹp” [narrow-hipped], mà ông đêm ngày mơ tưởng; những bài thơ của chàng, theo Coetzee, cho dù cái mũi của bạn lạc quan, dễ dãi cách mấy thì cũng không thể nào ngửi được! Chàng bắt đầu ký, không phải Falkner, như tên khai sinh, nhưng Fauklner, và, nhà có dòng, chàng bắt đầu nhậu như hũ chìm. Trong vài năm chàng làm nghề bán tem [postmaster] tại một bưu điện nhỏ cho tới khi, do trình diễn tệ quá, trong việc bán tem, chàng bị cho nghỉ việc [until he was dimissed for poor performance]. Chàng trải qua hàng giờ trong quầy bán tem như thế đó, để đọc và viết.
Đối với một người nào khăng khăng đi theo sự mách bảo của “thiên hướng của chính mình” [his own inclinations], thật kỳ kỳ, nghĩa là, thay vì xếp mền chiếu, lên đường kiếm chút ánh sáng nơi những đô thị lớn, chàng chọn thành phố nơi chàng sinh ra, và ở đây, cái việc viết lách của chàng bị coi là một trò nhạo báng. Jay Parini, người viết cuốn tiểu sử mới nhất về Fauklner, đã giải thích, Fauklner không làm sao rời xa bà mẹ của ông, một người đàn bà mà tình cảm dành con trai nhiều hơn là cho ông chồng đần độn, nhu nhược.
Trong những lần “đột nhập” New Orleans, Faulkner mở ra được một vòng tròn những ông bạn giang hồ tứ chiếng của mình, và gặp Sherwood Anderson, một tay viết biên niên sử về Winesburg, Ohio, tình bạn sau này làm chàng đau đớn. Chàng bắt đầu cho in những bài viết ngắn trên báo chí New Orleans; hơn thế nữa, chàng còn mê lý thuyết văn học. Willard Huntington Wright, đệ tử của Walter Pater, đã gây ấn tượng ở nơi chàng. Trong Ý Chí Sáng Tác [The Creative Will, 1916], chàng đọc, Wright cho rằng, nhà nghệ sĩ thứ thiệt là cô đơn do bản chất, “một vị thần chỗ nào cũng có mặt, vị thần này tạo khuôn tạo dáng cho cái gọi là định mệnh của một thế giới mới, rồi dẫn dắt tới cõi viên mãn của nó, “đứng một mình, tự chuyển động, độc lập”, và khiến cho kẻ tạo ra nó sướng điên lên được, [exalted of spirit]. Kiểu nghệ sĩ-thần thánh, theo Wright, là Honoré de Balzac. Tay này còn hơn cả Émile Zola, vốn chỉ có thể coi là một tay mô phỏng [copyist] thực tại hiện hữu trước đó [a pre-existing reality].
Vào năm 1925, Faulkner làm chuyến đi nước ngoài đầu tiên. Chàng trải qua hai tháng ở Paris và chàng thích nó. Chàng tậu một cái mũ beret, để râu, và bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết - chẳng bao lâu liệng thùng rác - về chàng họa sĩ với vết thương chiến tranh mò tới Paris thực hiện giấc mơ nghệ thuật. Chàng quanh quẩn quán cà phê James Joyce thường hay ngồi. Ở đó, có lần chàng thoáng thấy nhà văn nhớn, nhưng lại rụt rè không dám tới gần.
Như vậy là, sau cùng, như những chi tiết như trên cho thấy, chẳng một tí gì, về một chàng sẽ là nhà văn. Chẳng có một tia sáng nào loé ra, về một thiên tài văn chương. Thế mà, vừa mới trở lại quê hương Mẽo được ít lâu, chàng ngồi xuống bàn, và viết ra một sơ đồ 14 ngàn từ, những ý nghĩ, tư tưởng, nhân vật. Đây chính là cái cốt tuỷ, mà sau này, chàng dựa vào đó, đẻ ra được những cuốn tiểu thuyết, xin nhắc lại, những cuốn tiểu thuyết lớn lao, trong những năm từ 1919 tới 1942. Cái bản thảo, bản nháp, cuốn bí kíp đầu tay của chính ngài giáo chủ môn phái văn chương “dòng ý thức, ý thức nội tâm, dòng lảm nhảm một mình, độc thoại nội tâm”…. gì gì đó, có tên là Yoknapatawpha County [Bản, Làng, Quận, Miền… có tên là Yoknapatawpha]. Một xứ Thiên Thai của chàng.
Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu
tanvien.net
Chàng Billy Faulkner vừa mới bỏ trường lớp, chưa kịp đi hoang, thì cuộc Đệ Nhất Thế Chiến nổ ra. Quá mê mẩn với giấc mơ hoành tráng, trở thành phi công bay trên vùng trời Đức, chàng làm đơn nhập ngũ, và được đưa tới Không Lực Hoàng Gia, The Royal Air Force. Nơi đây đang quá cần ba thứ nhân lực mới tinh này, thế là chàng bèn được đưa qua Canada để thực tập. Thảm một nỗi, chưa hết khoá học đầu, chưa bay mình ên, dù chỉ một lần, chiến tranh đà chấm dứt!
Chàng trở lại Oxford, diện đồ bay Không Lực Hoàng Gia, cố sửa giọng đúng điệu dân Ăng Lê, chân đi hơi cà nhắc một tí. Một tai nạn nho nhỏ trong khi bay, chàng giải thích. Với mấy cha thật thân, chàng thì thào, trong người tớ còn có một miểng kim loại!
Chàng đánh bóng những huyền thoại bay của mình trong nhiều năm. Và chỉ xuống giọng, khi trở thành nhân vật quốc gia, sợ rằng, lỡ có thằng khốn nào bới lông tìm vết, và nếu thế, thì nguy quá! [the risk of exposure loomed too large].
Thua thì thua cố níu lấy con: Khổ một nỗi, giấc mơ bay không từ bỏ chàng, mà chàng cũng chẳng thể từ bỏ được nó. Trong nhiều năm, cố dành dụm, vào năm 1933, chàng học bay trở lại, và sắm cho mình một chiếc phi cơ, đi một đường quảng cáo: "William Faulkner [nhà văn nhớn nổi tiếng, Famous Author] Air Circus" [Gánh xiệc bay].
Mấy tay chuyên viết tiểu sử coi đây là những trò ưa mút ngón tay, thèm nổi tiếng, thèm được người đời chú ý tới. Frederick R. Karl tin rằng, "chiến tranh đã biến đổi [Faulkner] thành một người kể chuyện, a storyteller, một tay phịa chuyện, a fictionist, và đây là một mốc rất quan trọng trong đời chàng".
Cái chuyện bịp, và bịp một cách thật là dễ dàng, những con người tốt bụng chung quanh, vào thời gian học Oxford, đã chứng tỏ cho Faulkner thấy rằng, đối trá có thể đánh bại sự thực. Và, hơn thế nữa, người ta có thể kiếm sống bằng điều quái dị, vượt ra khỏi đời thường, one can make a living out of the fantasy.
Trở về nhà, Faulkner sống một cuộc sống bồng bềnh, trôi nổi, a drifting life. Chàng mần thơ, về “cái rốn”, mượn chữ của nhóm TCT [Tạp Chí Thơ], để dịch từ “epience”; Faulkner khi dùng từ này, thực sự để chỉ những người đàn bà “eo hẹp” [narrow-hipped], mà ông đêm ngày mơ tưởng; những bài thơ của chàng, theo Coetzee, cho dù cái mũi của bạn lạc quan, dễ dãi cách mấy thì cũng không thể nào ngửi được! Chàng bắt đầu ký, không phải Falkner, như tên khai sinh, nhưng Fauklner, và, nhà có dòng, chàng bắt đầu nhậu như hũ chìm. Trong vài năm chàng làm nghề bán tem [postmaster] tại một bưu điện nhỏ cho tới khi, do trình diễn tệ quá, trong việc bán tem, chàng bị cho nghỉ việc [until he was dimissed for poor performance]. Chàng trải qua hàng giờ trong quầy bán tem như thế đó, để đọc và viết.
Đối với một người nào khăng khăng đi theo sự mách bảo của “thiên hướng của chính mình” [his own inclinations], thật kỳ kỳ, nghĩa là, thay vì xếp mền chiếu, lên đường kiếm chút ánh sáng nơi những đô thị lớn, chàng chọn thành phố nơi chàng sinh ra, và ở đây, cái việc viết lách của chàng bị coi là một trò nhạo báng. Jay Parini, người viết cuốn tiểu sử mới nhất về Fauklner, đã giải thích, Fauklner không làm sao rời xa bà mẹ của ông, một người đàn bà mà tình cảm dành con trai nhiều hơn là cho ông chồng đần độn, nhu nhược.
Trong những lần “đột nhập” New Orleans, Faulkner mở ra được một vòng tròn những ông bạn giang hồ tứ chiếng của mình, và gặp Sherwood Anderson, một tay viết biên niên sử về Winesburg, Ohio, tình bạn sau này làm chàng đau đớn. Chàng bắt đầu cho in những bài viết ngắn trên báo chí New Orleans; hơn thế nữa, chàng còn mê lý thuyết văn học. Willard Huntington Wright, đệ tử của Walter Pater, đã gây ấn tượng ở nơi chàng. Trong Ý Chí Sáng Tác [The Creative Will, 1916], chàng đọc, Wright cho rằng, nhà nghệ sĩ thứ thiệt là cô đơn do bản chất, “một vị thần chỗ nào cũng có mặt, vị thần này tạo khuôn tạo dáng cho cái gọi là định mệnh của một thế giới mới, rồi dẫn dắt tới cõi viên mãn của nó, “đứng một mình, tự chuyển động, độc lập”, và khiến cho kẻ tạo ra nó sướng điên lên được, [exalted of spirit]. Kiểu nghệ sĩ-thần thánh, theo Wright, là Honoré de Balzac. Tay này còn hơn cả Émile Zola, vốn chỉ có thể coi là một tay mô phỏng [copyist] thực tại hiện hữu trước đó [a pre-existing reality].
Vào năm 1925, Faulkner làm chuyến đi nước ngoài đầu tiên. Chàng trải qua hai tháng ở Paris và chàng thích nó. Chàng tậu một cái mũ beret, để râu, và bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết - chẳng bao lâu liệng thùng rác - về chàng họa sĩ với vết thương chiến tranh mò tới Paris thực hiện giấc mơ nghệ thuật. Chàng quanh quẩn quán cà phê James Joyce thường hay ngồi. Ở đó, có lần chàng thoáng thấy nhà văn nhớn, nhưng lại rụt rè không dám tới gần.
Như vậy là, sau cùng, như những chi tiết như trên cho thấy, chẳng một tí gì, về một chàng sẽ là nhà văn. Chẳng có một tia sáng nào loé ra, về một thiên tài văn chương. Thế mà, vừa mới trở lại quê hương Mẽo được ít lâu, chàng ngồi xuống bàn, và viết ra một sơ đồ 14 ngàn từ, những ý nghĩ, tư tưởng, nhân vật. Đây chính là cái cốt tuỷ, mà sau này, chàng dựa vào đó, đẻ ra được những cuốn tiểu thuyết, xin nhắc lại, những cuốn tiểu thuyết lớn lao, trong những năm từ 1919 tới 1942. Cái bản thảo, bản nháp, cuốn bí kíp đầu tay của chính ngài giáo chủ môn phái văn chương “dòng ý thức, ý thức nội tâm, dòng lảm nhảm một mình, độc thoại nội tâm”…. gì gì đó, có tên là Yoknapatawpha County [Bản, Làng, Quận, Miền… có tên là Yoknapatawpha]. Một xứ Thiên Thai của chàng.
Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu
tanvien.net
Gửi ý kiến của bạn