Hôm nay,  

Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông: Đôi Bông Tai

03/06/200800:00:00(Xem: 2577)
LTS: Trong suốt 8 thập niên kể từ khi thành lập vào năm 1930, CSVN đã gieo rắc không biết bao nhiêu tội ác trên quê hương Việt Nam. Có thể nói, trên từng tấc đất, ngọn cây, hòn đá... của quê hương Việt Nam, dưới mỗi mái gia đình, trong mỗi thân phận người Việt, đều có những dấu ấn ghi lại những tội ác kinh tâm động phách do người cộng sản gây ra. Đặc biệt, sau khi ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Geneva, xâm lăng và chiếm đóng Miền Nam kể từ 30 tháng 4 năm 1975, CSVN đã thực hiện hàng loạt chiến dịch đàn áp, khủng bố, thủ tiêu, bắt bớ... dã man trên khắp lãnh thổ Miền Nam, để một mặt ăn cướp trắng trợn tài sản của người dân, mặt khác nghiền nát mọi sức đề kháng, chống đối của những người yêu nước, khiến hàng triệu người dân Miền Nam phải vượt biển, vượt biên tìm tự do. Hậu quả, trong thời gian hơn hai thập niên kể từ sau 1975, hàng trăm ngàn người Việt, trong đó phần lớn là phụ nữ, trẻ em, ông bà già,... đã bị thảm tử trên biển cả, trong rừng sâu, ngoài hoang đảo.... sau khi phải trải qua những bi kịch kinh tâm động phách, muôn vạn phần đau đớn. Không những thế, ngay cả với những người sống sót, những bi kịch kinh tâm động phách đó vẫn còn mãi mãi tiếp tục ám ảnh, giầy vò, tra tấn họ, cho dù họ có sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, có đi đến bất cứ chân trời góc biển nào... Để có thể tái tạo một trong muôn vàn tội ác của cộng sản Việt Nam đối với người vượt biên tìm tự do, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả những đoạn hồi ký trích trong "Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông". Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được, tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển. Qua đó, chúng ta sẽ thức ngộ được, lần đầu tiên trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc VN, và có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tội ác của một chế độ đối với chính người dân của chế độ, như chế độ CSVN, quả thực đã vượt khỏi biên cương quốc gia, tung hoành trong mỗi gia đình, mỗi cuộc đời, để rồi tiếp tục tràn lan trên khắp bề mặt địa cầu...

*

Một hai ba, nhứt nhựt quá tam, đã hai lần rồi ra đi không thoát, lấn thứ ba này không thoát có nước về nhà đi ăn mày, rồi đời sống sẽ ra sao, ngủ đình ngủ chợ, tương lai của đám con về đâu, bạn bè ngoảnh mặt người thân lánh xa, sống vô gia cư như vậy một ngày sẽ bị ruồng bỏ, không may mà bị bắt trở lại đưa về vùng kinh tế mới thì sẽ làm ma mới rừng thiêng nước độc đó mà thôi.

Đã nhiều người lắm tiền nhiều của năm bẩy lần ra đi thất bại còn tiền về mua chuộc phường ấp cho dù hồn ma cũng sống lại như chơi, còn bốn mẹ con chúng tôi kể từ ngày trở về thành phố, sống coi như đã chết bởi vì không còn hậu khẩu, tên tuổi đã bị cướp đi vào một đêm tối trời áp giải lên xe đưa đến một nơi không thể sống được, đào tẩu trở về không nơi nương tựa, tôi đã cắm lều che vải sống như kẻ du mục rày đây mai đó trong cảnh màn trời chiếu đất làm bạn với đám cô hồn uổng tử trong các bãi tha ma, đêm nào mưa gió nhiều tạt ướt đành phải ôm con ngồi chờ đến sáng. Rồi không biết từ đâu đổ về càng ngày càng nhiều người đến ở, cho nên đêm đêm thấy chập chờn thấp thoáng ở bãi tha ma nhiều oan hồn sống lang thang giữa đêm trường đói rét.

Hồi chiều, người chủ tàu báo cho tôi biết không còn chờ đợi được nữa, phải ra đi trước Tết, sẽ khởi hành vào đêm ba mươi mà hôm nay đã là hai mươi tám Tết rồi, vỏn vẹn chỉ còn hai ngày nữa là tôi sẽ rời bỏ nơi này, tự nhiên tôi cảm thấy bùi ngùi không như những lần ra đi trước kia, lòng nôn nao man mác không biết nên buồn hay vui, mười phần chết chỉ còn một phần sống, giao sinh mạng cả bốn mẹ con cho biển cả hỏi sao không hồi hộp, phần lo đi không suông bị bắt nhưng thôi đến nước này thì đành phải đưa chân, biết đâu trong cái chết tìm ra con đường sống.

Ông ta nói, "Vợ chồng tôi thương hoàn cảnh lam lũ của chị cho mẹ con chị theo chúng tôi, nhưng lương thực chị phải lo phụ với chúng tôi, chúng tôi cũng đã hết sạch bởi những lần đi thất bại, chúng đã nhớ mặt, nếu không may cho chuyến đi này tôi bị bắt lại thì tôi chỉ có con đường chết, cho nên mọi việc chị phải cẩn thận, ngày mai thực phẩm và con trai lớn của chị theo tôi nằm dưới ghe trước, còn vợ tôi sẽ đón chị theo điểm hẹn..." Nói xong ông ta vội lẩn nhanh vào bóng đêm. Còn lại mình tôi tần ngần giữa trời tối. Mùi rong biển theo gió thoảng đưa vào bờ, tôi hít vô lòng phổi để nghe mát rượi ngọt ngào yêu thương, nơi đây là quê hương nơi tôi đã được sinh ra và lớn lên với những hàng tre già cao ngất, thân thương những buổi hẹn hò đầu đời khi vừa tuổi trăng tròn 16, bao dấu yêu với kỷ niệm thời thơ dại, yêu đương nồng thắm người chồng mà hằng đêm thường thức trắng ghìm tay súng dõi mắt với quân thù, bao nhiêu thương nhớ có lúc xót xa với kỷ niệm, mà ngày mai tôi sẽ rời xa, trong một chuyến ra đi vô định chỉ có trời xanh mây nước, trong sự sống chết may rủi để tìm một con đường sống cho bốn mẹ con chúng tôi.

Sống dưới chế độ Cộng Sản không có con đường nào khác hơn để lựa chọn biết rằng cầm chín phấn chết trong tay nhưng cũng phải ra đi, nước mất nhà tan, bao nhiêu con rồng cháu tiên phải bồng bế nhau chạy ngược xuôi để tìm con đường sống trong cái chết, mà loài vô thần đang chực vây quanh để thiêu hủy nó đi, nghĩ đến điều đau thương đó tôi thầm thì khấn nguyện xin ơn trên hãy che chở cho chúng con, Chúa hãy ban phước lành nâng đỡ chúng con qua vùng bóng tối đau thương này, tôi là người ngoại đạo nhưng tôi tin có Chúa hằng cứu giúp, Chúa là đấng toàn năng, nếu trên con đường con đi chẳng may có mệnh hệ nào, xin Chúa hãy ra ơn dìu dắt những đứa con của con được bình yên đến bến bờ tự do.

Người bán hàng rong khuya đánh thức tôi trở về thực tế, thì ra tôi ngồi nơi này đã lâu, đứng dậy phủi hết lớp đất cát dính trên người, trở về túp lều mà bốn mẹ con tôi tạm sống, đứa con trai lớn vẫn còn thao thức chờ tôi, nó nói hôm nay con không bán được hết vé số nên không có tiền cho mẹ mua gạo, con đã nấu mấy củ khoai ngày qua còn lại mẹ hãy ăn đi, tôi nức nở, tội nghiệp con tôi, ôm nó vào lòng nghe mùi khét nắng trong tóc, đôi chân nhỏ bé của nó đã phải lang thang khắp trong cùng ngõ hẻm để kiếm sống, tuổi thơ của "Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa" đây sao" Đâu đâu cũng giăng đầy biểu ngữ nào hòa bình tự do hạnh phúc mà con tôi, đứa con đầu đời với tình yêu tuyệt vời của tôi, nó đã khổ sở như thế này đây ! Tôi thầm nói, không nhất định là không, ngày mai con sẽ không khổ nữa, mẹ phải tranh đấu để không thể lùi bước cho dù sự sống ra đi là rất mong manh, nhưng cũng phải đi.

Nhớ người chủ tàu nói phải lo giúp lương thực với ông, nhưng tôi lấy tiền đâu ra mua thực phẩm đây, tất cả có cái gì cũng đã bán hết rồi từ hai đợt đi kỳ trước, chỉ ngoại trừ đôi bông còn sót lại là chưa bán, đã có nhiều lần định bán để cho đám con no lòng trong những ngày đói kém, nhưng tôi đã cố giữ nó lại không bán đi, bởi lẽ tình yêu kỷ niệm của người chồng thân yêu, mà mãi sau ngày cưới anh mới kể cho tôi nghe rằng gia đình anh nghèo cưới em anh phải bán chiếc xe đạp cộng thêm tiền dạy kèm mỗi đêm mới đủ mua đôi bông cho tôi trong ngày cưới, cho nên đã bao nhiêu năm tháng với đời sống khó khăn tôi cũng không nỡ bán nó, tôi trân trọng tấm tình yêu của anh đã chắt chiu cho tôi, nhưng đến hôm nay tôi không thể giữ nó được nữa, phải bán nó đi để cho cục diện ngày mai, ít nhiều gì có còn hơn không, đám con anh cần sống, em phải bán nó đi, kỷ niệm của tình anh, làm sao em không khỏi đau lòng xót xa nhớ đến ngày anh phải cuốc bộ nhiều cây số để làm thêm mới đủ. Bởi vì vườn hồng vừa hé nụ đơm hoa kết trái, rồi thời gian thấm thoát chưa được bao lâu, đứa con đầu lòng chưa ra đời, thì có lệnh tổng động viên, anh phải lên đường nhập ngũ. Tình yêu của chúng mình ngày ấy chưa thấm mầu thì đã phải chia xa, anh vào Thủ Đức, tình yêu cũng xa dần từ dạo đó. Rồi sau đó một năm họa hoằn về phép được vài ngày lại vội vã ra đi khi mà cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Anh nói anh không thể bỏ bạn bè chiến đấu cho dù ngày mai anh không biết sự sống còn ra sao, cho nên anh vội vã.

Rồi những đứa con tình yêu của chúng tôi cũng vội vã theo thời gian lần lượt ra đời. Anh nhớ ngày đó chỉ còn kỷ niệm đôi bông ngày cưới và cuối cùng là chiếc áo, với tấm thẻ bài mà người bạn cùng khóa mang về, ngày ấy tôi đã khóc ngất lên ngất xuống. Thế là hết! Anh đã chối bỏ cuộc sống xa lìa tình yêu của tôi, của người vợ trẻ đang độ tuổi thanh xuân đương độ, mà đêm đêm với giấc ngủ chập chờn khi nghe tiếng súng xa vọng về.
Ngày đó tôi còn nhớ lần về phép cuối cùng như một điều chẳng lành báo trước, đêm cuối cùng của ngày phép. Tay gối đầu, hai đứa tôi yên lặng bên nhau, qua khung cửa ánh trăng buồn treo lơ lửng soi xuống trần thế đau thương như cuộc tình sắp chia xa của chúng tôi, chiến tranh thật là tàn ác, nó làm chia lìa và ly tan, tang thương dày xéo đổ lên đầu người dân Việt từ đời này qua đời khác. Nằm trong vòng tay êm ấm của anh tôi ấm ức, anh dỗ dành nói chiến tranh là vậy, mình phải hy sinh không thể sống riêng tư cho mình được, rồi tiếp tục nói: “Lỡ mai anh không về, em hãy đem con về quê nhờ mẹ mà nuôi con cho khôn lớn”. Đó là lời cuối cùng anh để lại cho tôi. Nhưng anh biết không lời của anh khi miền Nam vẫn còn là miền Nam, chứ Cộng Sản chiếm cứ rồi thì thôn quê hay thành thị đều đau khổ tủi nhục giống nhau.

Rồi không như anh tưởng, miền Nam thật sự thất thủ. Người dân biết được mặt thật của Cộng Sản thì đã quá trễ vì cá đã vào rọ. Đêm đêm loa phóng thanh hội họp người dân rời thành phố để đi xây dựng vùng đất "hứa hẹn" nơi chó ăn đá gà ăn sỏi ở vùng kinh tế mới. Mang danh là vợ Ngụy quân cộng thêm tội buôn bán trái phép, tên tôi đứng đầu sổ để ra đi đến vùng kinh tế mới mà thời gian ở đó tôi còn nhớ là một vùng khô cằn sỏi đá cây còn mọc không được thì làm sao khoai có củ. Nhà ở thì không ra nhà, lá thì không ra lá, tôi còn nhớ tôi chắp vá bất cứ thứ gì có thể chắn gió che mưa, đêm nào trời giông gió nhiều, thổi lạnh buốt xương không tài nào chịu được. Phần bụng đói, nhìn con trong giấc ngủ hồn nhiên, lòng tôi quặn thắt, tôi muốn khóc nhưng không sao khóc được, mà nếu có khóc có lẽ sẽ là máu trong nước mắt. Tôi thấy mình nhỏ bé và cô thế quá, biết về đâu, biết ai đây, không ai cả. Tôi nghĩ đến Chúa, chỉ có Chúa mới có quyền năng dắt mẹ con chúng tôi ra khỏi địa ngục đoạ đầy này, cho nên ngày ấy tôi đã cầu nguyện hàng giờ khi cảnh vật im lìm chìm vào giấc ngủ, chỉ còn nghe xa xa tiếng chim rừng vọng đến trong đêm trường cô tịch não nùng cho những kẻ đang đói lòng.

Rồi ngày ấy, trời bắt đầu chuyển sang mùa đông, mưa phùn lất phất, tôi nhớ đã đếm đầu ngón tay gần một tháng hơn chờ tiếp tế lương thực nhưng vẫn chưa thấy, như lời hứa suông, không khác nào đem con bỏ chợ. Tôi suy nghĩ mãi làm cách nào đây, bốn mẹ con chúng tôi không thể chết nơi rừng núi hoang vu này, rồi tôi tự nói với chính mình phải can đảm rời bỏ nơi này cho dù lưỡi lê hay búa rìu cũng không sợ, và không thể để yếu hèn mà ngã quỵ thì không bao giờ có cơ hội mà đứng dậy. Cho nên tôi rất cần tinh thần minh mẫn trong lúc này và tôi gọi thầm tên người chồng thân yêu nơi nào đó một góc trời hoang vu của núi đồi: “Nếu hồn thiêng anh còn hiển linh hãy giúp em nhiều nghị lực để vượt qua cơn sóng dữ này.” Và tôi gọi tên anh với những lời thân thương nhất: “Anh biết không. Vì tình yêu của anh, em phải sống.” Tôi nhớ lúc đó thật là đau thương, tôi ôm tấm áo của chồng tôi, chiếc áo cũ rích, rách nhiều chỗ chàm vá và đã bạc màu cùng với ngày tháng cực khổ, tôi đã mặc nó trong những ngày trời đông rét mướt, nó đã theo tôi khắp nông trường đó.

Rồi ngày đó trong sự chờ đợi, càng ngày càng tuyệt vọng, lương thực như một cái bóng mờ trong sa mạc mà chúng đã hứa cả mấy tháng hơn rồi, không thể ngồi chờ được nữa, nên trong một đêm kiên quyết tôi phải rời bỏ nơi này nhanh chừng nào hay chừng nấy, vẫn biết ngày mai rồi sẽ ra sao, có ra sao cũng mặc, khuya đêm nay phải ra đi tôi không hề chợp mắt, cầu nguyện và cầu nguyện, Chúa hãy giúp con, kẻng vừa đổ canh tư là tôi lặng lẽ dắt con tôi xuống đồi. May mắn làm sao, đêm ấy, sương khuya vẫn còn dầy đặc cho nên mẹ con tôi qua cổng trại mà đám lính canh không ai hay biết gì, có lẽ nhờ ơn Chúa nên đêm ấy sương khuya dầy đặc hơn mọi khi, nghĩ đến điều được ơn Chúa, nước mắt tôi tuôn rơi mà những ngày đó tôi lại không có giọt nước mắt để mà khóc.

Thế là thoát nạn, người dân ngày đó biết được bốn mẹ con chúng tôi từ kinh tế mới trở về, họ thương cảm giúp đỡ nên cũng no lòng. Để rồi về đến quê nhà, tưởng mẹ già ra đón nào ngờ cửa đóng then cài, nhà đã bị tịch biên sang chủ mới. Người hàng xóm nhanh miệng cho tôi biết, mẹ già không chống chọi được. Ruộng vườn chia cắt, bao nỗi ưu phiền, mẹ đã nằm xuống không người thân bên cạnh, khi những chiếc lá vàng cuối sắp sửa lìa cành là lúc mẹ lìa đời. Mộ mẹ bên đồi hoang vắng, hàng xóm đắp sơ sài. Lúc dó tôi còn nhớ đã khóc như một đứa trẻ ngày nào còn nhỏ cần mẹ, đắp thêm mộ phần mẹ khắc chữ dựng bia để thương nhớ. Tưởng đâu tuổi già bóng xế được nương cậy, nhờ thời son trẻ mẹ đã một đời lặn lội lên non, xuống đoài, nuôi con không lớn, vứt tuổi xuân bên đường chồng chất đôi vai không một ngày vui hạnh phúc. Chiến tranh như hung thần, tôi thù ghét nó, nó đã giết đi bao cuộc đời son trẻ của người đàn bà Việt nam. Nhìn đám con tủi phận cho mình, niềm hy vọng cuối cùng đã tan về đâu đêm nay, con sáo trên cành như cám cảnh tiếng hót như thương xót cho đời người sao lắm đau thương.

Thế rồi sau ngày đó, ngày mới bắt đầu. Ngày ngày lội sâu bới từng đống rác tìm bao bịch nylon, mùi hôi thối xông lên nồng nặc nhưng biết làm sao hơn. Những đứa con cần sống nên tôi đã không nan từ với công việc gì, buôn bán mánh mung giành giựt với những tên quản lý thị trường, mà ngày đó tôi còn nhớ tôi không còn sợ báng súng là gì.

Những ngày đêm mưa nắng, đêm về thì ngủ dưới gầm cầu hoặc bãi tha ma, đêm nào nghe động tĩnh thì ba hồn bảy vía chạy cho nhanh kẻo để chúng bắt được trả về kinh tế mới thì có nước chết. Cho nên tôi phải tranh đấu, tôi lúc đó như con hổ đói, lúc nào cũng chực sẵn giành mồi nuôi con, để sau đó một mình trong đêm vắng, tôi thổn thức, tôi không còn là người vợ xinh đẹp ngày xưa của anh nữa, của người chồng thân yêu, của những lúc hẹn hò... anh thường vuốt tóc tôi rồi khen mái tóc tôi dài như bóng dừa quê anh. “Anh biết không, mái tóc ngày xưa anh yêu quý không còn nữa, em đã cắt mái tóc đó kể từ ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, thay vào đó em đã cột từ trước ra sau gáy nhiều khi nhìn gương, em không còn nghĩ là em nữa. Tại thời thế tạo em như vậy. Tình của em đã theo anh chết từ ngày hay tin anh nằm xuống, không một lời từ giã với em, với người mẹ già hằng đêm cầu kinh khi hỏa châu rơi. Ai đã vuốt mắt cho anh, bạn bè có còn không hay họ cũng đã nằm xuống bên anh, để dành từng tất đất hơi thở cho miền Nam thân yêu trong lửa bỏng dầu sôi" Anh nằm xuống một nơi nào đó trong chốn rừng thiêng mà chỉ có tiếng chim buồn tiễn đưa anh. Cho nên em phải sống, sống cho những đứa con tình yêu của chúng mình ắt đến bờ Tự Do”. Nhìn con trong giấc ngủ mê say, chúng đâu biết rắng mẹ chúng ngày mai bán đôi bông kỷ niệm, để dọn cho chúng một lối đi đầy hứa hẹn.

Thế rồi ngày ra đi đã đến. Từ chiều giờ nằm ở điểm hẹn vẫn không thấy động tĩnh gì cả, chẳng lẽ có chuyện gì không may xẩy ra" Canh một qua rồi, bụng nghe cồn cào bởi lúc chiều lo quá nên quên ăn, phần thì bị muỗi cắn. Đêm ba mươi sao tối đen như vậy, xoè bàn tay trước mặt không thấy, xa xa nghe sóng vỗ vô bờ lòng nôn nao, rồi tôi lại bắt đầu cầu nguyện để lấy lại tinh thần. Tôi rất hy vọng ở một đấng tối cao, ngài sẽ không bỏ rơi mẹ con tôi. Đang miên man suy nghĩ chợt nghe tiếng chim rú ba lần, tôi biết giờ đi đã đến, mạnh dạn cõng đứa con nhỏ trên lưng với chiếc đai cột từ sau ra trước thật chặt, và tôi thầm nói với chính mình, phải bảo vệ những đứa con của tôi, kỷ niệm tình yêu cuối cùng này của tôi. Con hãy ngủ yên nhé, ngày mai bình minh sẽ đến với con, đứa con kế nó như hiểu biết lặng lẽ đi theo tôi...

Mọi việc êm xuôi, đúng ngay mai có bình minh nhưng bến bờ là mênh mông, nhưng dầu sao cũng đã thoát khi đã định thần lại mới biết tàu dài độ 20 m, người thì lố nhố khoảng bẩy tám chục, phần nhiều là đàn bà và con nít, có những người chưa bao giờ biết biển là gì nên say sóng nằm như chết, riêng mẹ con chúng tôi tuy ốm nhưng dai sức bởi vì năm tháng dãi dầu lăn lộn với cuộc sống sương gió nên tôi cũng khoẻ hơn mấy người đàn bà cùng chuyến tầu.

Đi đã ba ngày hai đêm, tàu nhẹ nhàng lướt theo ánh trăng im lìm mà đi. Biển êm trời êm sương lạnh rồi tôi nghe mặn ở bờ môi thì ra tôi đã khóc mà những ngày gian khổ với bọn vô thần tôi đã khô cằn chai lì để bây giờ nước mắt cứ trào dâng. Tôi không buồn lâu, thương người chống xấu số, thương cho dân Việt đau thương muôn đời bị trị trong thống khổ đành bỏ nước lìa xứ xa quê, nơi chôn nhau cắt rún bao giờ trở về được hát khúc hoan ca.

Thuyền vẫn êm đềm trôi đi hy vọng được tàu vớt. Trong niềm hy vọng mong manh bất chợt từ xa nhón lên một chấm đen tiến lần lần lại chúng tôi. Chúng tôi mừng quá đỗi hy vọng gặp được tàu vớt bởi vì trên tàu của chúng tôi vài người bắt đầu yếu sức vì thiếu nước, lúc đó chúng tôi dùng hết khả năng để báo hiệu. Dần dần sự báo hiệu đó tiến lại gần, thì ra lũ đầu trâu mặt ngựa, hai tàu chúng ép thuyền chúng tôi vào giữa và bắt đầu lục soát . Sau là đến đàn bà con gái, khi chúng trả những người đàn bà về chỉ còn nằm lả đi vì phần bị sóng, bị đói mấy ngày qua. Tôi may mắn không bị chúng để ý đến, có lẽ mặt mày tôi bôi đầy dầu mỡ, tóc tai rối bù. Sau khi chúng nhổ neo không quên mang theo 3 em gái khoảng 14 đến 17. Tôi ứa nước mắt không biết các em có còn sống để rồi biệt mù tăm cá, tội nghiệp các em quá hay sau cơn dục vọng chúng quăng các em xuống biển để làm mồi cho cá.

Tàu lại tiếp tục đi độ nửa ngày đường nữa thì gặp thêm một bọn quỷ dạ xoa, lần này không còn gì nữa thì chúng hung dữ dã man hơn hết. Bắt đàn bà con gái sang tàu chúng hãm hiếp hơn nửa ngày, có người đàn ông nóng lòng cứu vợ, chúng đập đầu ngay và liệng xuống biển. Nên sau đó không ai còn dám hó hé, tụi nó muốn làm gì thì làm. Thực ra đói quá còn hơi sức đâu nữa mà chống cự nổi những tên hải tặc dã man cầm thú.

Sao trời lại để cho những tên gian ác sống, còn những người vô tội phải chết oan trong đau đớn" Khi chúng thả neo trong đó có người đàn bà về đến tàu chỉ thều thào mấy câu nhờ giúp đỡ con của chị, rồi chị nắm tay tôi gửi gấm nhẹ nhàng ra đi. Dù không quen biết nhưng mấy ngày qua nằm gần bên nhau trên tàu sống chết này tôi cũng buồn rưng rức thương cho số phận không may của chị trên bước đường tìm tự do chưa tới đích thì chị đã nằm xuống.

Bây giờ thì lòng biển cả tiếp nhận chị, chúng tôi cầu nguyện và đưa xác chị xuống lòng biển, tôi thầm khấn vái hồn chị linh thiêng hãy giúp chúng tôi đến được bến bờ tự do . Đã hai lần tàu bị cướp tôi đều thoát nạn như lời cầu xin của tôi được Chúa ban ơn, tôi nghĩ như vậy vì dù tôi có dơ dáy cỡ nào cũng khó lòng thoát với lũ man rợ. Đêm lại xuống, tàu chúng tôi bây giờ như bóng con tàu ma, tất cả nằm như chết muốn ra sao thì ra, tàu bây giờ thả trôi theo sóng biển chỉ còn tôi và một vài người đàn bà là còn chút sức vì vậy chúng tôi mới giúp đỡ cho những người bên cạnh.

Nhìn những vì sao đêm rời rạc cũng như chúng tôi đang lạc loài cô đơn trong đêm đen, chưa thấy đâu bến bờ. Lần này chúng tôi không còn hơi sức đâu làm hiệu nữa, hai lần tín hiệu để tàu tới cứu là hai lần mất mát, may mắn lắm mới được từ cõi chết trở về, cho nên lần này phó mặc cho trời đất.
Rồi lần thứ ba lại đến, thằng đầu sỏ không qua, nó sai đàn em bắt hết đàn bà con gái lớn nhỏ qua tàu hắn, lần này coi như chết nắm phần chắc trong tay. Những bước chân đi xiêu vẹo đến từng người một bước qua, lúc này tâm trí tôi không còn nghĩ gì hơn tại sao có loại người dã man vô cùng tận giống như loài quỷ, không phải con người. Chúng tôi vừa thoát khỏi loài vô thần quỷ đỏ thì lại gặp phải những con thú dữ không còn tánh người, những đứa nhỏ đáng tuổi con cháu, chúng cũng không từ. Đứng trước mặt nó lúc đó tôi không biết một động cơ nào thúc đẩy. Tôi quắc mắt nhìn nó một cách không sợ hãi hầu như thách thức tụi nó.

Và tôi cũng không còn nghĩ điều gì hơn thiệt nữa, ba bẩy cũng phải liều. Nhìn đứa con gái mà tôi vuốt mắt cho mẹ nó lúc sáng hứa sẽ bảo vệ... tôi nỡ lòng nào để cho nó rơi vào tay ác quỷ. Nghĩ đến điều đó tôi bước mạnh dạn ra khỏi hàng như người hùng sẵn sàng lâm trận. Tôi giơ tay dùng hết mọi khả năng để cho nó biết rằng không còn ai có thể sống nổi nếu nó tiếp tục cướp và hãm hiếp. Tôi chỉ trời đất nguyền rủa nó chứ không van xin, cho nên lúc đó tôi không còn đếm xỉa đến hắn. Biết chống là chết nhưng tôi nghĩ lúc đó có chết cũng phải vùng lên dù là một khoảng khắc để rồi sau đó tắt lịm còn hơn cứ để chúng vời chơi như mèo vờn chuột, trước sau gì cũng chết. Nghĩ đến điều đó tôi quỳ xuống trong thư thái bình thản, mặc cho bọn chúng reo hò, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi gọi Chúa, chỉ có Chúa mới cứu được chúng con trong lúc này thôi, bởi cái chết như sợi chỉ treo, lương thực đã hết, nước khô cạn. Hôm qua có người đàn ông không chịu nổi khát uống chai dầu gió bứt ruột mà chết, khi cơn đói khát làm hoa mắt chẳng còn biết cái gì nữa.

Nếu một người như tôi có chết đi mà đoàn tầu trong đó có những đứa con thân yêu của tôi được đến bến bờ, được quỳ dưới chân Nữ Thần Tự Do thì cái hy này không còn gì sung sướng bằng, tôi cứ nghĩ miên man và điềm tĩnh nhắm mắt cầu nguyện không còn sợ hãi nữa, đón nhận những gì đưa đến cho mình. Rồi trong khoảng khắc không biết bao nhiêu lâu đứa con tôi lay vai tôi gọi: “Mẹ, chúng nó cho nước rồi thả hết người rồi mẹ, mẹ đứng dậy đi nó không bắt mẹ đâu.” Tôi như từ một vùng cơn mơ bước ra, không thể nào tin được những tên hải tặc bôn ba khắp vùng biển cả để săn mồi lẽ nào bỏ qua con mồi ở trong tay chúng. Về đến tàu, tôi vẫn chưa hoàn hồn, Chúa đã giúp chúng tôi, tôi ôm đứa con nhỏ nước mắt ràn rụa. Chúa đã cứu mẹ mặc dù mẹ chưa hề sức dầu là con chiên của Chúa. Chỉ có Chúa tối cao mới có quyền năng biến một con sư tử, trở thành một con nai hiền lành, cho nên tàu chúng tôi mới thoát nạn. Bây giờ cả tầu lấy lại được chút niền tin và sức sống nhờ có chút nước cầm hơi. Một ngày sau chúng tôi được tầu Đức vớt. Thế là cuộc hành trình trong nỗi kinh hoàng biển đông mà người Việt đi tìm tự do phải gánh chịu mọi gian nan trong cái chết tìm con đường sống, bao nỗi dày vò đói khát cướp bóc hãm hiếp, làm mồi cho cá, giữa trời nước mênh mông không thấy đâu là bờ bến mà ngày ấy đã mang may mắn cho tôi gió lặng sóng êm, những cơn sóng ngủ vùi dưới lòng biển cả nên đã bỏ quên chúng tôi.

Bây giờ nhiều khi trong giấc ngủ chợt giật mình nhớ lại ngày ấy tại sao tôi có thể can đảm liều mạng đem sinh mạng mấy mẹ con mà giỡn với tử thần. Bây giờ nơi miền đất tự do, năm đứa con, hai đứa của người đàn bà xấu số, cũng đã nên người . Mùa xuân lại về, đêm ba mươi ngồi một mình trong căn nhà vắng vẻ ôn lại chuyện cũ đã qua, mới ngày nào thoáng chốc đã hai mươi năm, tóc bây giờ đã ngả mầu, đã có biết bao điều thay đổi, nhưng quê nhà vẫn lầm than. Bao giờ người dân Việt mới được hưởng mùa xuân thật sự không bị CS cai trị và kềm kẹp, để cùng nhau hát khúc thanh bình trong những đêm trăng sáng quê nhà"...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.