Hôm nay,  

Trong Căn Phòng Rưỡi

06/01/200500:00:00(Xem: 15212)
Gửi L. K.
Joseph Brodsky

Căn Phòng Rưỡi (không hiểu một đơn vị không gian như vậy có ý nghĩa gì không, ở trong tiếng Anh), trong đó, gia đình chúng tôi gồm ba người sống, có một cái sàn bằng gỗ, và mẹ tôi không chịu cho bất cứ người đàn ông nào trong gia đình, đặc biệt là tôi, đi lại trong phòng mà lại mang vớ ở chân. Bà nhắc nhở chúng tôi, hãy luôn luôn mang giầy, hoặc dép. Nếu phải phiền trách, bà nhắc tới dị đoan của ông già bà già Nga, mang vớ như thế là xui xẻo, trong nhà sẽ có người chết
Lẽ dĩ nhiên, việc mang vớ đi trong phòng như thế, đối với bà, giản dị chỉ là một thói xấu, thiếu văn hoá. Chân đàn ông vốn có mùi, và căn phòng đâu phải là nơi chứa chấp những mùi vị như vậy. Tuy nhiên, tôi cho rằng, sự thực là, nếu mang vớ, có thể té ngã, nhất là thứ vớ len, dạ. Và nếu một người già cả, lụm cụm, té như thế có khi mang họa. Sự gần gụi của cái sàn với gỗ, với đất…. trong trí tưởng của tôi cứ thế được mở rộng ra, tới bất cứ mặt đất nào mà chân cẳng bà con, gần hoặc xa, sống trong cùng một thành phố, dẫm lên trên. Chẳng cần khoảng cách xa hay gần, vẫn là chung mặt đất. Ngay cả chuyện nếu sống ở phía bên kia con sông, nơi tôi sau này sẽ muớn một căn hộ, hoặc một căn buồng riêng cho mình, cũng không thể khác đi, bởi vì trong thành phố này, có nhiều sông và kênh rạch. Và, mặc dù những con sông, một số khá sâu đủ cho tầu biển đi lại, thần chết, theo tôi nghĩ, vẫn coi là nông, theo cái tiêu chuẩn cõi âm phủ của nó, và sẽ bò qua, ở dưới đáy của chúng.
Bây giờ, bà cụ và ông cụ thân sinh ra tôi đều đã mất. Tôi đứng ở bờ biển Thái Bình Dương: bao la là nước biển chia cách tôi với hai bà cô và anh em cô bác: Sự cách ngăn mới lớn lao, mới thật thiệt làm sao. Đến thần chết cũng còn lầm, không biết ai là kẻ tới số. Bây giờ, tôi có thể thoải mái mang đôi vớ ở chân, đi đi lại lại, bởi vì tôi đâu còn thân nhân ở lục địa bên này. Cái chết độc nhất trong gia đình, là cái chết của chính tôi, chắc hẳn thế, mặc dù giả dụ như thế là lầm lộn máy phát tin với máy nhận tin, theo nghĩa, người mang vớ là tôi, còn người nhận cái xui xẻo phải là người khác. Sự may rủi ở trong trường hợp này thì quá nhỏ, và đây là điều phân biệt giữa máy móc điện tử, với mê tín, dị đoan. Tuy nhiên, nếu tôi không giẫm lên hai tấm ván sàn có hình lá phong Gia Nã Đại ở trên những tấm vớ của tôi, thì điều này không phải vì tin vào khoa học, hay là vì mê tín dị đoan, giống như một thứ bản năng sợ chết, lúc nào cũng chăm chăm lo bảo tồn mạng sống của mình, nhưng mà là do mẹ tôi sẽ không chấp nhận chuyện đó. Tôi nghi là tôi vẫn cố tình giữ làm sao cho mọi chuyện vẫn y nguyên như ngày xưa trong gia đình của chúng tôi, cho dù bây giờ chỉ còn tôi trơ cu lơ ở trên cõi đời này.

2

Có ba chúng tôi trong căn phòng rưỡi của chúng tôi đó: cha tôi, mẹ tôi, và tôi. Một gia đình, theo đúng kiểu Nga, vào thời kỳ đó. Thời đó, là sau chiến tranh, và rất ít gia đình chịu nổi, ngay chỉ ý nghĩ ngông cuồng này: hay là tụi mình có thêm một đứa con nữa, là hai" Một số gia đình còn không thể chịu nổi, chuyện, ông già của mình còn sống, hoặc sờ sờ ra đó: Khủng Bố Lớn và chiến tranh đã thu gom gần như hết giống đàn ông Nga, ở trong những thành phố lớn, nhứt là thành phố quê hương của tôi. Vì vậy, kể như gia đình tôi là may mắn, nhứt là còn sự kiện này nữa: chúng tôi là dân Do Thái. Tất cả ba chúng tôi sống sót cuộc chiến (tôi nói, cả ba, bởi vì tôi cũng ra đời trước cuộc chiến, vào năm 1940); cha mẹ tôi, tuy nhiên, còn sống sót những năm 1930.
Tôi nghi, hai ông bà nghĩ rằng họ may mắn, mặc dù cả hai ít nói về chuyện này. Nói chung là, cả hai chẳng để ra sự thất thần, về chính họ, ngoại trừ ngày một thêm tuổi, và ba thứ bệnh lẩm cẩm bắt đầu ảnh hưởng tới họ. Ngay cả khi đó, họ cũng không nói về họ, và về cái chết theo kiểu làm kinh hoàng người nghe, hoặc khiến cho người nghe đâm ra cảm động, hoặc thương hại. Thường thì hai ông bà chỉ ca cẩm tí tí, về chứng đau lưng, nhức đầu, hoặc bàn bạc về ba thứ thuốc men này nọ. Cùng lắm, là bà cụ tôi có thể nói như vầy, khi chỉ bộ chén dĩa kiểng bằng sành, sứ Trung Hoa: Cái đó sẽ là của con, khi có vợ… và tới đó, là bà ngưng. Tôi nhớ, có một lần, bà từ một ca bin điện thoại ở đường phố bước ra, trong khi tôi chờ bà ở bên ngoài, và tôi nhận ra có vẻ gì khác thường trong cái nhìn của bà, trong đôi mắt ẩn đằng sau cặp kính lão gọng đồi mồi của bà. Tôi cúi về phía mẹ, ấy là bởi vì khi đó tôi đã khá lớn, và cao hơn mẹ, và hỏi, bà bạn của mẹ đã nói gì, và mẹ tôi trả lời: “Bà bạn của mẹ biết bà ta sắp sửa chết, và khóc với mẹ trong điện thoại.”
Lẽ dĩ nhiên, ông già bà già của tôi hiểu thật rõ, trời cho chi thì nhận vậy. Và ông trời cho ông bà: hệ thống nhà nước [chết tiệt đó], sự bất lực, sự nghèo khổ đó, và đứa con trai độc nhất, nối dõi tông đường đó. Họ chỉ cố, làm sao làm được điều tốt nhất, từ mọi thứ trời cho họ: làm sao có thức ăn bầy lên bàn - và cho dù là thức ăn chi chi, cũng cắt xén, bầy biện thành những miếng nhỏ, vừa miệng ăn; cố gắng trang trải mọi chuyện, theo kiểu cháo húp quanh, nợ trả dần – và, mặc dù gia đình chỉ trông vào đồng tiền kiếm được từng ngày, cũng cố làm sao dành dụm vài đồng lẻ cho thằng bé đi coi phim, đi coi viện bảo tàng, mua sách vở, dăm ba cái bánh ngọt, hay vài cục kẹo. Đồ đạc, vật dụng trong nhà, bát dĩa, quần áo thay đổi hàng ngày… tất cả là cứ sạch sẽ ngăn nắp, phẳng phiu, bóng loáng. Ba cái tạp dề lúc nào cũng thơm phức, ba cái chụp đèn sạch bụi, ôi, còn cái sàn gỗ thì khỏi nói, lúc nào cũng sạch như li như lai.
Điều ly kỳ nhất, là hai ông bà chẳng bao giờ tỏ ra buồn bực, chán nản. Mệt mỏi có, nhưng chán nản, không bao giờ. Hầu hết thời gian ở trong nhà, ông bà đi đi lại lại, ít khi ngồi: nấu nướng, giặt giũ, hết việc bếp thì đi lên phòng trên, phòng của tôi, phòng của ông bà, thì cũng vẫn trong căn phòng rưỡi đó. Khi họ ngồi, ấy là ở bàn ăn, để dùng bữa, nhưng với bà cụ của tôi, bà ngồi, như tôi còn nhớ được, chủ yếu là ở bàn máy may, cặm cụi với cái máy hiệu Singer, nào là sửa chữa, may vá mấy bộ đồ, lộn cổ áo phía trong thành phía ngoài, nới rộng, hay cắt ngắn ba quần áo cũ. Còn với ông cụ, thời gian độc nhất ngồi trên ghế, là khi ông đọc báo, hay một cái gì đó, ở nơi bàn của ông. Thỉnh thoảng, vào buổi tối, họ ngồi coi phim, hoặc một buổi hòa nhạc, từ chiếc TV đời 1952. Rồi thì, ông bà cũng được an vị, trên ghế, trong căn phòng rưỡi của chúng tôi: một người láng giềng đã thấy ông cụ tôi mất, trong khi ngồi như thế, một năm trước đây.

3

Ông cụ tôi thọ hơn bà cụ mười ba tháng. Bà cụ 78 tuổi trời, còn ông cụ tám mươi. Tôi chỉ được sống chung với cả hai, ba mươi hai năm. Tôi gần như chẳng biết một tí gì, về chuyện hai ông bà đã làm quen với nhau trong dịp nào, ra làm sao; tôi còn chẳng biết hai người lấy nhau vào năm nào. Chẳng biết cách họ sống, cách họ xoay xở, trong mười một hoặc mười hai năm sau cùng của cuộc đời của họ, những năm không có tôi. Kể từ khi chẳng hề biết như vậy, tôi đành nhủ thầm, rằng mọi chuyện thì cũng theo thường lệ, và, biết đâu, hai cụ còn cảm thấy dễ xoay sở hơn, khi không có tôi ở kế bên, cả về mặt tiền bạc chi dụng hàng ngày, lẫn việc, hết còn phải thấp thỏm, về chuyện tụi nó bắt bớ giam cầm thằng con.
Ngoại trừ chuyện, tôi đã không được phụng dưỡng bố mẹ khi ông bà đã già yếu, ngoại trừ chuyện, hai cụ mất không có tôi ở kế bên. Tuy nhiên, tôi nói như vậy không hoàn toàn là do mặc cảm tội lỗi. Ao ước, làm sao đi đúng con đường của bố mẹ, theo tôi, có thể là một ao ước ích kỷ, bởi vì, mọi đứa trẻ, cách này hay cách khác, đều lập lại thành công của bố mẹ chúng. Tôi chỉ có thể nói như thế này, nói cho cùng, con người muốn học, từ bố mẹ của mình, về tương lai của chính mình, của riêng mình, về tuổi già của riêng mình; con người muốn học, từ bố mẹ của nó, bài học tối hậu này: làm sao chết, chết thế nào. Ngay cả khi chẳng muốn bất cứ một điều gì vừa nêu trên, thì con người vẫn hiểu ra điều này, tuy không cố tình muốn hiểu, rằng, khi mình già, liệu có khác ông via bà via mình chút nào không, hay cũng rứa" Liệu những gì gì, giọt máu đào hơn ao nước lã, là như vậy, liệu cái bệnh đau tim này, là di truyền"”
Như vậy là tôi không, và sẽ chẳng bao giờ biết, ông cụ bà cụ cảm thấy thế nào, những năm cuối cùng của cuộc đời của họ. Họ đã phải sợ hãi bao nhiêu lần" Bao nhiêu lần họ đã cảm thấy đã được sửa soạn, để chết, và sau đó, sau khi đã bình tâm, liệu có khi nào họ mong ước, cả ba chúng tôi sẽ có cơ hội lại đoàn tụ" “Con trai của mẹ,” bà cụ sẽ gọi điện thoại cho tôi, và nói, “điều độc nhất mà mẹ muốn từ cuộc đời này, là, lại được nhìn thấy con. Đó là điều khiến mẹ còn níu kéo cuộc đời này". Và một phút sau, “Con đang làm gì đó, mẹ muốn nói, năm phút, trước khi con gọi cho mẹ"” “Con đang rửa chén dĩa.” “Ô, vậy thì tốt quá. Đó là điều thật tốt để mà làm. Đôi khi nó còn làm cho con khoẻ mạnh, một cách trị bịnh tuyệt vời đấy, con trai của mẹ.”

4

Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi đó, thuộc dẫy phòng chiếm một phần ba của cả khu phía bắc tòa building sáu tầng lầu, nhìn ra ba con phố, và một quảng trường. Tòa nhà là một trong những phúc lợi kỳ diệu nhất, được xây dựng theo kiến trúc của người Moor, đánh dấu bước ngoặt thế kỷ tại vùng Đông Âu. Được dựng lên vào năm 1903, năm sinh của ông già tôi, nó là một trong những nguồn cảm hứng về kiến trúc, đối với thành phố St. Petersburg vào thời kỳ đó, và Anna Akhmatova có lần đã kể cho tôi nghe, là ông cụ bà cụ của bà đã đẩy một chiếc xe trẻ con, trên có cô con gái của hai cụ, tức là nữ thi sĩ lớn lao của nước Nga sau này, tới viếng thăm kỳ quan kiến trúc, là tòa building nói trên. Về phía Tây, nó nhìn ra một trong những đại lộ nổi tiếng nhất của văn học Nga, đại lộ Liteiny Prospect, nhà thơ lớn Alexander Blok có thời gian có một căn phòng tại đây. Riêng về dẫy nhà của chúng tôi, một trong căn phòng đó đã từng được một cặp văn nhân tài tử cư ngụ. Cặp này đã có thời ngự trị văn đàn thời tiền Cách Mạng Nga, và cả sau này, thời kỳ lưu vong tại Paris, vào thập niên 1920, và 1930, đó là Dmitry Merezhkovsky và Zinaida Gippius. Và cũng chính từ bao lơn căn phòng rưỡi của chúng tôi mà Zinka, khi còn trứng nước, đã buông lời lăng nhục đám thuỷ thủ cách mạng.
Sau Cách Mạng, với chính sách “cài răng lược” đám trưởng giả, dẫy nhà trên đã được xẻ banh ra, mỗi gia đình một mẩu. Tường cứ thế thi nhau dựng lên, ngăn những phòng lớn ra. Lúc đầu thì còn là tường gỗ lớp, plywood. Rồi thì là, theo năm tháng, đủ thứ loại tường, ván, gạch… cũng góp phần làm nên tiêu chuẩn, mẫu mã kiến trúc. Không gian không triển nở mãi ra, nhưng mà là cứ thế co rúm lại. Do co rúm lại như thế, lạ lùng thay, không gian lại trở nên hài hòa hơn. Cấu trúc có vẻ đẹp ra, và, có nhiều tên gọi: một gian [a cell], một góc [a closet], một cái mả, cái huyệt [a grave]. Như những cánh tay, những cái vòi, chúng cứ thế vươn ra, ôm trọn lấy những khoảng trời.
Trong Liên Bang Xô Viết, tiêu chuẩn chỗ ăn chỗ nằm, là 9 mét vuông cho một người. Chúng tôi phải nghĩ là mình là may mắn, bởi vì được chia tới 40 mét. Để được sự may mắn thái quá đó, ông cụ bà cụ đành phải bỏ hai căn phòng rời, ở hai nơi khác nhau, trong thành phố, nơi cả hai đã từng sống, trước khi lấy nhau. Một quan điểm về trao đổi như vậy, phải nói là chia chác, do mục đích sau cùng của nó, người nước ngoài thật khó hình dung nổi. Những luật lệ về tài sản thì bí ẩn, ở đâu thì cũng vậy thôi, nhưng có vài thứ bí ẩn hơn những thứ khác, đặc biệt là, khi chủ nhà của bạn chính là ông nhà nước. Tiền bạc không ăn thua gì ở đây, thí dụ vậy, bởi vì kể từ khi sống dưới chế độ toàn trị, đồng lương cố định, chế độ tem phiếu, mọi người ai cũng nghèo như… người đứng kế bên. Bạn không mua, [tiền đâu mà mua], phần ăn ở nhà nước đã chia cho bạn, nếu có chăng, là đòi cho được phần mà bạn đã được chia, trước đó. Nếu bạn có hai người, và nếu bạn quyết định sống chung, như vậy là cả hai được chia, phần hai bên trước đó sống riêng rẽ, bây giờ cộng lại. Và mấy anh chị công nhân viên sở nhà đất là người quyết định chuyện này. Đừng mua cuộc họ, bởi là vì đẳng [đảng] cấp giữa đám người này, tới lượt nó, thuộc loại “siêu” bí ẩn, và bản năng đầu tiên của họ, khi vừa nhìn thấy bạn, là, hãy chia cho nó, càng ít càng tốt!

Những cuộc đổi chác cứ thế mà tiến lên, năm này qua năm khác, và đồng minh độc nhất của bạn là sự mệt mỏi, hoặc là bạn chơi trò chai lì, không chịu dọn tới một nơi chốn ẹ hơn, và cứ ở, cho tới khi, không nó, thì bạn, xụm xuống. Không kể sự tính toán số học thuần tuý, điều làm đám công viên sở nhà đất đi đến quyết định, là cả một mạng lưới rộng lớn những gìả dụ, những ví thử, những nếu mà chẳng bao giờ thành luật, về tuổi tác, quốc tịch, sắc dân, nghề nghiệp, về tuổi, trai hay gái của mấy đứa con, gốc gác xã hội, quê quán của bạn, ấy là chưa kể ấn tượng đầu tiên về bạn, khi bạn vừa chường mặt ra ở sở nhà đất. Chỉ mấy người công nhân viên ở đó biết xó xỉnh nào còn trống, chỉ họ phán đoán đâu là khinh đâu là trọng, làm sao thiến ở chỗ này một tí, đắp vô chỗ kia một tị, một mẩu vài thước vuông. Ôi chao, sự khác biệt mới lạ lùng làm sao! Với một tí một mẩu như thế, bạn có thể có được một nơi cho cái kệ sách, hay sung sướng thay, một cái bàn để mà ngồi làm việc, hay mơ mộng.

5

Ngoài cái chuyện may mắn có thêm được tới muời ba mét vuông, chúng tôi còn may mắn khủng khiếp ở chỗ, cộng đồng nơi chúng tôi dọn tới đó, thật là nhỏ bé, tôi muốn nói, khu vực có căn phòng rưỡi của chúng tôi đó, gồm tất cả sáu phòng, nhờ trời, chỉ có bốn gia đình trú ngụ. Kể cả chúng tôi, chỉ có mười một mạng sống ở đó. Một khi không còn cuộc sống tập thể, cư dân của nó có khi tới con số một trăm mạng. Trung bình ra, thì là từ hai mươi lăm tới năm mươi. Riêng gia đình chúng tôi thì kể như rất ư là khiêm tốn, tôi muốn nói, nhỏ nhoi.

Lẽ dĩ nhiên, chúng tôi cùng dùng chung một nhà cầu, một phòng tắm, và một cái bếp. Nhà bếp nói chung cũng rộng rãi, nhà cầu thì rất ư là tươm tất và thoải mái. Còn phòng tắm, những thói quen của người Nga liên quan tới công việc vệ sinh là, mười một mạng cũng ít khi bị coi là chật chội, không đủ chỗ, khi cả một đống người như thế dùng chung một nhà tắm, hay làm luôn công việc giặt giũ cơ bản [hoặc cái quần xà lỏn, hoặc cái xú chiêng], cũng ở một nơi bé tí đó. Người đang chờ tới phiên mình thì lăng quăng ở hành lang nối phòng trên với nhà bếp, và người ta thuộc nằm lòng, người hàng xóm của mình có mấy cái xà lỏn, xì líp, hay xú chiêng!

Hàng xóm, là hàng xóm tốt. Vừa như là những cá nhân tốt, vừa là do, tất cả họ đều đi làm và như thế, vắng mặt gần như suốt ngày. Còn điều này: họ không hề báo cáo công an; đúng là một điểm tốt ngay cả khi còn kiểu sống tập thể. Nhưng, ngay cả bà ta, một người đàn bà lùn tịt, chẳng có eo ếch gì hết, một phẫu thuật viên tại một bệnh viện đa khoa gần đó, cũng sẽ ban cho bạn một lời khuyên về một căn bệnh hay một thứ thuốc nào đó, giữ cho bạn một chỗ đứng, khi phải xếp hàng mua một thứ thực phẩm khan kiếm bằng tem phiếu, hay trông chừng nồi cháo đang sôi có thể trào ra ngoài. Dòng thơ của Frost, trong “The Star-Splitter” [Người Chẻ Sao. Đây là nói về con người ngày càng tiến bộ, có thể ‘xẻ dọc những vì sao’. ND], hình như là nói về điều này" “Bởi vì sống với xã hội, với người khác, là phải biết tha thứ”" [For to be social is to be forgiving].

Trong tất cả những khốn khổ khốn nạn của cuộc sống tập thể đó, vẫn có một tí gì mang tính cứu rỗi. Nó đẩy cuộc đời về những cơ bản của nó. Nó xóa sạch mọi ảo tưởng về bản chất của con người. Nghe tiếng rắm ở trong nhà cầu, là bạn biết ngay, ai đang ở trong đó. Bạn còn biết, ông/bà láng giềng đó đã xơi món gì, trong bữa cơm chiều, hoặc bữa điểm tâm. Bạn nghe ra những tiếng động, của người nào nguời nào, khi cọ quậy trên giường, và biết, khi nào những người đàn bà có tháng. Thường xuyên, bạn là người mà người hàng xóm tóm lấy, để mà thở than, ca cẩm, về nỗi đau, nỗi buồn của ông ta hay bà ta. Và cũng chính người đó, sẽ kêu xe cứu thương, nếu chẳng may bạn lên cơn đau tim hay gặp điều gì còn tệ hại hơn. Và cũng chính ông ta, hay bà ta, đã khám phá ra bạn, nằm chết ngay đơ, trên chiếc ghế vẫn ngồi thường ngày, nếu bạn là người sống độc thân, hay là ngược lại.

Những nhận xét, mách bảo thuốc thang hay cách nấu món này, món nọ, ở cửa hàng nào có món khoai lang, rau muống cọng vừa dài lại vừa xanh, non… những trao đổi như vậy thường là ở nhà bếp, khi mấy bà vợ đang lo bữa ăn chiều. Đây là nơi người ta học những điều thiết yếu, hệ trọng của cuộc sống: bằng một cái nhếch tai, một cái nháy mắt. Bi kịch nào đang diễn ra ở đây, khi một người nào đó đột nhiên đổi giọng, với một người nào khác! Học ở đâu cách ăn nói đó! Xúc động sâu xa tới mức nào đã khiến cho cột sống lưng cứng đờ vì giận dữ, khiến dáng đứng như trời trồng thế kia! Những mùi vị nào, hương thơm nào, uế khí nào bồng bềnh trong không khí, quanh ngọn đèn vàng một trăm oắt lửng lơ như một giọt nước mắt treo trên một sợi dây điện sặc sỡ rối tít mù.Có một cái gì hình như là bộ lạc ở đây, trong căn hầm mờ mờ sáng này, một cái gì nguyên thuỷ, hoặc nếu muốn, bạn có thể gọi nó là tiến hóa; và những nồi niêu xoong chảo treo lơ lửng trên bếp ga, chúng giống như những chiếc trống tom tom, của một thời tiền sử.

6

Tôi nhớ lại tất cả những gì vừa kể ra trên, không phải là do hoài hương, nhớ nhà, nhưng bởi vì đó là nơi mẹ tôi trải qua một phần tư cuộc đời của bà. Người trong gia đình ít khi kéo nhau đi ăn tiệm, thay cho một bữa nấu tại gia; ở Nga, hầu như chẳng bao giờ. Tôi không nhớ hình ảnh bà cụ, hoặc ông cụ, qua một bàn ăn tại nhà hàng, hay tại một tiệm cà phê. Bà mẹ tôi là người nấu ăn số một mà tôi đã từng được biết, trừ một ngoại lệ, có lẽ, là Chester Kallman; nhưng tay này, nói cho cùng, chỉ hơn bà cụ tôi, là có trong tay nhiều gia vị hơn! Tôi nhớ cụ nhất, thường là khi cụ ở nhà bếp, với cái tạp dề, mặt đỏ ửng, và cặp kiếng mắt mờ đi vì hơi nước, cụ xua tôi ra xa khi xán gần bếp, tính nhón món này hay món nọ còn nóng bỏng ở trong lò. Môi trên bà long lanh mồ hôi; mớ tóc ngắn, cắt gọn, khô đỏ nhưng mà là mầu xám, thì rối bù. “Đi chỗ khác!” bà la lên. “Con không đợi được hả"” Tôi sẽ chẳng bao giờ còn được nghe những lời như thế nữa.

Tôi cũng chẳng bao giờ còn nhìn thấy mẹ mình mở cửa (làm sao bà mở, hai tay bận cái xoong, hoặc hai cái chảo" Bằng cách hạ chúng xuống ngang then cửa và đè chúng lên đó"), và mang vô cho chúng tôi bữa chiều/bữa xúp/bữa trà/bữa điểm tâm. Cha tôi, lúc đó đang đọc báo, còn tôi, sẽ không rời cuốn sách nếu không được ra lệnh, và, mẹ tôi biết rất rõ, chẳng hy vọng gì ở hai người này, bởi vì bất cứ phụ giúp nào của hai cha con chúng tôi, chỉ làm chậm, hoặc có khi lóng ngóng đến làm hỏng bữa ăn! Hai bố con, tức những người đàn ông trong gia đình của bà, đã hiểu rất rõ, thế nào là lịch sự, hơn là chính họ có thể chủ động, ở trong những công việc cần tới lịch sự như thế. Ngay cả khi cả hai đều đang đói. “Ông lại đang đọc Dos Passos của ông"”, bà cụ có thể sẽ đưa ra một lời nhận xét, khi dọn bàn. “Ai sẽ đọc Turgenev" Ông hy vọng gì ở ông ta"”, và cha tôi sẽ trả lời, như một tiếng vang đáp lại, trong khi gấp tờ báo. “Một kẻ ăn không ngồi rồi”.

7

Làm sao tôi có thể tưởng tượng, cũng có tôi ở trong một khung cảnh như vậy" Nhưng mà rõ ràng là như vậy đấy, như tôi nhìn rõ cả hai ông bà. Lại một lần nữa, ở đây, không phải là hoài nhớ tuổi trẻ của tôi, quê hương xa xưa của tôi. Không, còn hơn cả thế, bây giờ, khi hai cụ đều đã mất, tôi nhìn thấy cuộc đời của họ, như cuộc đời của hai cụ đã từng như thế; và như thế, cuộc đời của hai cụ ôm, gồm cả tôi. Và cũng thế, họ cũng sẽ nhớ về tôi, ngoại trừ bây giờ, họ có được cái khả năng quí báu là có mặt ở tất cả mọi nơi, và vào lúc này, đang quan sát đứa con trai của họ, ngồi trong phòng bếp của một căn hộ thuê của trường học, viết những dòng này, bằng một thứ chữ mà cả hai đã không hiểu, mặc dù bây giờ cả hai đều không cần tới chúng nữa. Bây giờ cả hai đều thuộc về một thế giới khác. Đó là dịp may độc nhất mà họ có, để được nhìn thấy đứa con trai của hai cụ, ở bên Mỹ. Và đó là cách độc nhất, để tôi nhìn thấy hai cụ, và căn phòng của chúng tôi.


8

Căn phòng của chúng tôi, trần cao chừng mười bốn feet, có thể hơn. Cũng vẫn theo kiểu Moor cộng thêm những vết nứt rạn, những loang lổ, do ống nước từ những phòng phía trên dò rỉ xuống, nó biến thành một tấm bản đồ chi tiết thật chi li, thuộc về một siêu cường chưa từng hiện hữu hoặc một quần đảo. Có ba cửa sổ rất cao, hình vòng cung, qua chúng, chúng tôi có thể nhìn, chẳng thấy gì, ngoại trừ, ngôi trường trung học, ở bên kia con phố, nếu không nhìn từ cửa sổ chính, vốn còn được dùng như là lối ra bao lơn. Từ bao lơn, chúng tôi có thể nhìn dọc theo hết con phố, đúng kiểu phố St. Petersburg, cuối tầm nhìn, là bóng dáng đẹp vô song, của vòm cung nhà thờ St. Panteleimon, hay là, nếu nhìn về phía bên phải, là công trường lớn, ở ngay trung tâm của nó, là nhà thờ Cathedral of the Savior of Her Imperial Majesty’s Transfiguration Battalion.

Vào thời gian chúng tôi dọn tới kỳ quan Moor, tức Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi đó, con phố vẫn còn mang tên Pestel, một trong những thủ lãnh của nhóm Decembrists, đã bị hành hình. Tên khởi thuỷ của nó, là theo tên nhà thờ ở mãi cuối phố: Panteleimonovskaya. Ở đó, khi con phố cùng đường, nó bèn vòng theo ngôi nhà thờ và chạy về phía sông Fontanka River, vượt qua cây cầu Police Bridge, và đem bạn tới Vườn Mùa Hạ, Summer Garden. Pushkin đã từng ở tại khu phố này, và đâu đó, trong thư viết cho vợ, ông nói, là, “sáng nào cũng như sáng nào, trong chiếc áo ngủ, chân mang đôi giầy mềm, tôi băng qua cầu, làm một cuộc đi dạo Vườn Mùa Xuân. Cả Vườn Mùa Xuân là khu vuờn của tôi, my orchard…”

Nhà của ông, Số 11, tôi nghĩ vậy. Còn của chúng tôi, Số 27, và đó là cuối con phố, khi nó trầm mình vào quảng trường nhà thờ. Còn điều này nữa, vì building chúng tôi nằm ở nơi con phố cắt đại lộ đã đi vào huyền thoại, Liteiny Prospect, thành thử địa chỉ thư tín của chúng tôi là Liteiny Pr. #24, Apt. 28. Đó là nơi chúng tôi nhận thư từ của chúng tôi; đó là nơi tôi viết trên những chiếc phong bì của những lá thư nhà, gửi cho hai cụ. Tôi nhắc tới ở đây không phải bởi vì nó có một chút ý nghĩa gì đặc biệt, nhưng là do, ngòi bút của tôi, có thể thông cảm với chủ nhân của nó, rằng, đây là lần cuối cùng, và rồi ra, nó sẽ chẳng bao giờ phải viết địa chỉ đó nữa.

9

Lạ một điều, ba thứ đồ đạc trong căn phòng lại tỏ ra ăn ý với phía bên ngoài cũng như là phía bên trong building. Chúng như quấn quit, bận bịu với nhau, bằng những đường cong, bằng tính hoành tráng toát ra từ cái vẻ mốc meo của vôi, của vữa, ở mặt tiền, hay ở những tấm ván, những cột trụ, từ bên trong tường nhô ra, cuộn trên cột, là những vòng hoa vữa, những trái cây được trang trí theo kiểu hình học. Cách trang trí, cả ngoại lẫn nội thất, làm tỏa ra một cái bóng dáng mầu nâu nhạt trộn mầu sữa cô ca. Tuy nhiên, hai cái tủ lớn của chúng tôi, giống như thứ ở nhà thờ, có ô kéo, thì lại bằng gỗ sồi, đánh véc ni đen, nhưng chúng cũng thuộc về cùng một thời kỳ, tức bước ngoặt của thế kỷ, như tòa building, chính nó. Có thể chính vì thế mà lối xóm tỏ ra dễ chịu với chúng tôi, ngay từ đầu. Có thể chính vì vậy, cũng nên, mới chưa đầy một năm, mà chúng tôi đã có cảm giác, sống ở đây hình như là, tự muôn đời. Cái cảm giác đó lây lan đến cả những đồ đạc, rằng, hai cái tủ lớn của chúng tôi sau cùng đã kiếm ra nhà của chúng, rồi cái cung cách vòng vo này nọ, sao đó, khiến cho chúng tôi nhận ra rằng, chúng tôi, cũng vậy, như vậy là đã an cư, và sẽ chẳng còn dời đổi nữa.

Hai cái tủ hai tầng, to lớn, cao mười feet của chúng tôi đó [bạn phải tháo mấy cạnh tủ ra khỏi cái đáy chân voi, mỗi lần muốn di chuyển], chúng chứa đựng gần như tất cả những gì gia đình chúng tôi nhặt nhạnh được, dòng dã suốt cuộc đời của chúng. Cái vai trò của gác xép, hay hầm nhà, ở mọi nơi khác, trong trường hợp của chúng tôi, là do hai cái tủ trình diễn. Những máy quay phim, đủ thứ hầm bà lằng của cha tôi, dụng cụ rửa phim, phim ảnh, chính chúng, những dĩa, đồ sứ, vải lanh, khăn trải bàn, hộp đựng giầy với những đôi bây giờ quá nhỏ đối với ông, nhưng vẫn còn rộng đối với tôi, những dụng cụ kìm kéo, tuộc vít, những cục pin, bộ đồ lính thuỷ cũ rích của ông, những chiếc ống nhòm, an-bum gia đình, mũ nón, khăn quàng của mẹ tôi, mấy lưỡi dao cạo râu Solingen bằng bạc, ba thứ đèn chụp hình hết xài, mớ huy chương nhà binh của cha tôi, những bộ kimonos nhiều mầu của mẹ tôi, thư từ trao đổi giữa hai người, kiếng đeo mắt, thứ dùng khi đi coi nhạc hội, hoặc coi diễn kịch, ba cái quạt máy, những món đồ kỷ niệm này nọ - tất cả được nhét vô đáy tủ, và mỗi lần mở ra, là mở ra một mùi quần áo cũ, và một mớ bụi. Phần dưới tủ, ngay phía bên trên, giống như trên mặt lò sưởi, hai cái bình thuỷ tinh, đựng rượu, ngồi chung với hai ngư ông người Tầu, bằng sành, đang kéo câu. Mẹ tôi, cứ hai lần trong một tuần, mở ra, và lau bụi cho mấy món đồ này.

Ba thứ đồ lẩm cẩm, linh tinh đó, nói gì thì nói, khi phải nhìn ngoái lại, chúng có thể được coi như một thứ tâm tư góp nhặt theo dòng đời của gia đình chúng tôi, nối kết lại với nhau, nhưng vào lúc đương thời của chúng, tôi chẳng hề để ý tới. Ít nhất thì nó là như vầy: tất cả những đồ vật đó, chúng là một phần của ý thức của cha mẹ tôi, những dấu hiệu của hồi nhớ: về những nơi chốn, những thời kỳ trước tôi; về quá khứ chung, và riêng, trước khi gặp nhau, của ông bà, về tuổi trẻ và tuổi thơ của riêng từng người, về một thời đại khác biệt, một thế kỷ khác biệt. Vẫn theo dòng nhìn ngoái lại đó, tôi có thể nói thêm, điều này: về sự tự do của ông bà, bởi vì họ sinh ra tự do, và lớn lên tự do, trước khi có cái mà đám cặn bã ngu đần kia gọi là Cách Mạng, nhưng với họ, và nhiều thế hệ khác, nó có nghĩa là nô lệ.

10

Tôi viết thư nhà này bằng tiếng Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự do, một chút tự do này, rộng hẹp ra sao, là còn tuỳ thuộc vào con số những người muốn, hoặc thích đọc thư nhà này. Tôi muốn ba má tôi, Maria Volpet và Alexander Brodsky, có được thực tại dưới “qui tắc ngôn ngữ ngoại về lương tâm” [a “foreign code of conscience”]. Tôi muốn, những động từ tiếng Anh, về sự chuyển động, diễn tả những chuyển động của hai cụ. Điều này không làm cho hai cụ sống lại, nhưng văn phạm tiếng Anh ít ra cũng chứng tỏ được một điều, đó là con đường giải thoát tốt đẹp hơn, từ những ống khói lò hỏa táng của nhà nước, so với văn phạm tiếng Nga. Viết về họ bằng tiếng Nga chỉ có nghĩa kéo dài thêm sự giam cầm của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý, do cái việc hư vô hóa một cách máy móc kia. Tôi biết, không nên đánh đồng nhà nước với ngôn ngữ, nhưng chính là xuất phát từ thứ tiếng Nga đó, mà hai người già cả, đã mò mẫm hết cơ quan này tới cơ quan kia, hết ông cán này tới ông cán khác, với hy vọng có được tờ giấy phép đi ra nước ngoài để thăm đứa con trai độc nhất của họ, trước khi họ chết, và liên tiếp được trả lời, trong mười hai năm trời ròng rã, là nhà nước coi một tờ giấy phép như thế, là “không thích hợp, không có mục đích” [“unpurposeful”]. Chỉ nội chuyện đó không thôi, sự lập đi lập lại một “lời phán” khốn nạn như thế, nó chứng tỏ một sự quen thuộc nào đó, của nhà nước, với tiếng Nga. Ngoài ra, ngay cả chuyện, nếu tôi viết tất cả, bằng tiếng Nga, những từ này cũng chẳng mong chi có một ngày đẹp trời của nó, nhìn thấy ánh sáng mặt trời, dưới bầu trời Nga. Ai sẽ đọc chúng" Một dúm di dân Nga mà cha mẹ của họ, đã chết, hoặc sẽ chết, dưới những hoàn cảnh tương tự" Họ, chính họ, hiểu rõ chuyện này hơn ai hết. Họ hiểu, cái cảm tưởng đó là như thế nào, khi không được phép nhìn mẹ cha của họ, khi ông hay bà nằm trên giường chờ chết; sự im lặng tiếp theo yêu cầu của họ, về một giấy nhập cảnh khẩn cấp, để dự đám tang của người thân. Và rồi thì, mọi chuyện đều quá trễ, và người đàn ông, hoặc đàn bà đặt chiếc ống nghe điện thoại xuống, bước ra khỏi một cánh cửa, bước vào một buổi chiều ở nước ngoài, cảm thấy một điều mà chẳng ngôn ngữ nào có từ ngữ để diễn tả, và dù có la, rú, hét, khóc than cỡ nào cũng vô ích… Tôi sẽ phải nói với những người đó điều gì" Bằng cách chi, tôi có thể an ủi họ" Chẳng có một xứ sở nào làm bố một xứ sở như là nước Nga, trong nghệ thuật huỷ diệt tâm hồn những con người như trên đây. Và chẳng có một cá nhân người viết nào, với cây viết ở trong tay, lại có thể làm lành lặn những tâm hồn đó; không, chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được điều này. Chính là vì lý do đó, mà Đấng Thiêng Liêng kia mới có mặt trong suốt Thời Gian Của Người. Cầu Trời cho tiếng Anh là nhà cho cái chết của tôi. Trong tiếng Nga, tôi được sửa soạn để đọc, viết những dòng thơ, hay lá thư. Tuy nhiên, với cha mẹ tôi, Maria Volpert và Alexander Brodsky, tiếng Anh mới là thứ tiếng dâng hiến cho họ một dáng vẻ đẹp hơn, về một đời sau, và có lẽ cũng chỉ có nó, trừ của tôi ra. Và nếu nói về thứ ngôn ngữ thứ nhì tức tiếng Anh, viết bằng thứ tiếng này thì cũng giống như đang làm cái công việc rửa chén dĩa, rất tốt cho sức khỏe, như mẹ tôi đã mừng rỡ khi biết thằng con của bà vừa rửa một mới chén dĩa xong, là bèn gọi điện thoại cho mẹ liền!

11

Cha tôi là ký giả - nhiếp ảnh viên nhật báo, chính xác là vậy - mặc dù ông cũng viết báo nữa. Ông viết chủ yếu cho những tờ báo nhỏ, và như thế, chúng chẳng hề được đọc, và hầu hết bắt đầu bằng những dòng “Những đám mây bão nặng nề trên vòm trời biển Baltic…”, ông tin rằng, mở ra bằng một tin tức thời tiết như thế sẽ khiến cho người đọc cho rằng đây là một cái tin đáng đọc, đáng tin cậy. Ông có hai cái bằng, một về địa dư, của Đại học Leningrad, và một, báo chí, của Trường Báo Chí Đỏ [School of Red Journalism]. Ông học môn thứ nhì, sau khi biết rằng, những cơ may đi du lịch, đặc biệt là du lịch nước ngoài, kể như tiêu: là một người Do Thái, con trai một người chủ tiệm in, lại không phải là Đảng viên, thôi đừng mơ những chuyện hão huyền đó nữa nhé, ông đành nói với mình như vậy.
Báo chí [tới một mức nào đó] và chiến tranh [cơ bản] tạo được sự cân bằng, làm mất đi sự bất công kể trên. Hai chân ông phủ lên một phần sáu bề mặt trái đất [đây là định nghĩa tiêu chuẩn bề mặt lãnh thổ Liên Bang Xô Viết], và không nhỏ, những sông ngòi, biển cả. Mặc dù thuộc Hải Quân, chiến tranh khởi sự đối với ông, là vào năm 1940, ở Phần Lan, và chấm dứt vào năm 1948, tại Trung Hoa, nơi ông được phái tới, cùng với một nhóm cố vấn nhà binh để giúp đỡ me-xừ Mao trong những cuộc tấn công nổi dậy của ông ta, và chính từ đất nước này, mà chúng tôi có được hai ngư ông người Tầu bằng sành, và bộ đồ ăn Trung Hoa mà mẹ tôi muốn chuyển giao cho tôi, khi tôi lấy vợ. Giữa thời gian đó, ông còn hộ tống Allies’ PQ tại biển Barents Sea, chống giữ và sau đó thất thủ Sevastopol tại Biển Đen, gia nhập – sau khi pháo thuyền của ông bị chìm – đơn vị Thuỷ Quân, Marines, như khi đó gọi vậy. Trong thời gian thành phố Leningrad bị vây hãm, ông được phái tới tiền phương mặt trận Leningrad, chụp những tấm hình thật là đẹp, như tôi đã từng được nhìn thấy, khi được in ra, về thành phố bị vây hãm, và sau đó, ông tham dự cuộc giải vây, [phần này của cuộc chiến, theo như tôi tin tưởng, là phần ảnh hưởng sâu đậm nhất tới ông, vì nó quá gần với gia đình của ông, tới nhà của ông. Nhưng, nếu nói về những gì gần gụi ông nhất, thì ông đã mất căn phòng của ông, người chị/em độc nhất của ông: vì bom, và vì chết đói]. Sau đó, ông được phái trở lại vùng Biển Đen, đổ xuống khu vực tệ hại là Malaya Zemlya, chống giữ nó; rồi thì, khi mặt trận chuyển về hướng Tây, đi theo đơn vị pháo thuyền đầu tiên tới Rumania, đổ quân tại đây, và, trong một thời gian ngắn, là vị toàn quyền nhà binh của Constanza. “Chúng tôi đã giải phóng Rumania”, đôi lúc, ông hào sảng về mình như vậy, và có khi còn hảo sảng thêm một chút nữa, nghĩa là nói về những lần gặp gỡ giữa ông với nhà vua King Michael. Đó là ông vua độc nhất mà ông đã từng gặp; còn Mao, Tưởng Giới Thạch, không nói tới Stalin, ông chỉ coi là những tên tiếm ngôi, soán nghịch.

12

Chuyến đi Tầu của cha tôi, cho dù là vì một công chuyện tinh ma quỉ quái gì gì đi chăng nữa, thì chỉ có căn nhà kho nhỏ bé, mấy chiếc tủ, và mấy tường nhà, được hưởng lợi. Những nghệ phẩm lần sau chót được đem ra trình diễn, đều là từ Trung Hoa: mấy bức tranh bần, mầu nước, những cây kiếm của mấy ông samurai, những bức màn nhỏ bằng lụa. Hai ông ngư ông lúc nào cũng như có chút men ở trong người, là những nhân vật cuối cùng xuất hiện trong đám cư dân bằng sành, gốm, những con búp bế, và những con chim cánh cụt đội nón, chúng dần dần biến mất, nạn nhân của những cử chỉ cẩu thả, hơi mạnh tay, hoặc là phải nhường chỗ cho những món quà sinh nhật của bà con chú bác. Cũng biến đi chỗ khác cho được việc, là những cây kiếm, chúng đành phải đầu hàng mấy tay thu gom của nhà nước, lý do là, những khí giới nguy hiểm như thế không phải thứ thường dân có thể nghịch ngợm, táy máy! Chơi dao có ngày đứt tay: Đúng là một lời khuyên bảo hữu lý, nhất là lúc sau này, thằng con trai độc nhất của hai cụ khiến đám công an tới Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi, để hỏi thăm sức khoẻ của hai cụ hơi nhiều! Còn bộ đồ ăn bằng sứ Trung Hoa, cái này thì thật kỳ, tôi muốn nói sự biến mất của chúng, nhưng bà mẹ của tôi không muốn nhìn, không muốn nghe thấy nói tới, dù chỉ một cái dĩa kiểu, ở trên bàn ăn “của chúng tôi”: “Những thứ của quí đó đâu để cho những con người nhếch nhác”. Cụ sẽ nhẫn nại vô cùng, khi giải thích cho chúng tôi. “Mà mấy người thì thật là nhếch nhác. Quá nhếch nhác!”. Vả chăng, những chén dĩa mà chúng tôi đang dùng thì cũng lịch sự chán. Quá lịch sự là đằng khác. Mà lại rất ư là cứng cáp, khoẻ mạnh, không mảnh khảnh, làm dáng như ba thứ đồ Tầu, đồ Sứ!
Tôi còn nhớ, một buổi tối âm u, lạnh lẽo, vào tháng Chạp năm 1948, trong căn phòng nhỏ, mười sáu mét vuông, nơi mẹ tôi và tôi sống, trong và sau khi chiến tranh chấm dứt. Buổi chiều hôm đó, Cha tôi từ Trung Hoa về. Tôi nghe tiếng chuông cửa, mẹ tôi và tôi chạy ra trước cửa, chỗ đèn sáng mờ mờ bỗng như tối hẳn đi với những bộ đồng phục Hải quân: cha tôi, bạn của cha tôi, và đồng ngũ, Đại Uý F.M., và một nhóm quân nhân đi vô hành lang, khiêng ba cái thùng lớn, có móc cài của người Trung Hoa, bốn phiá chung quanh trang trí những chữ Trung Hoa giống như những con bạch tuộc khổng lồ. Và sau đó, Đại Uý F.M. và tôi ngồi ở bàn, trong lúc cha tôi mở mấy chiếc thùng, và mẹ tôi, trong chiếc áo dài bằng nhiễu Trung Hoa mầu vàng hường, vừa vỗ tay vừa la lên, “Ach, oh wunderbar!”, bằng tiếng Đức, thứ tiếng thời thơ ấu của bà tại Latvia, và thứ tiếng hiện bà đang sử dụng, vì bà làm thông ngôn trong một trại tù binh chiến tranh người Đức. Và Đại Uý F.M., một người đàn ông cao, thon, rắn chắc trong bộ đồ quân phục xanh đậm, không cài nút, tự rót cho mình một ly từ cái bình rượu, và nháy mắt với tôi, như với một người lớn. Những chiếc thắt lưng lỉnh kỉnh ba cái móc neo, ba cái bao súng ngắn thì được để trên thành cửa số. Chiến tranh hết rồi, bây giờ là hoà bình. Tôi thì còn nhỏ quá, để mà nháy mắt đáp lại ông Đại Uý.

13

Bây giờ, tuổi ở vào đúng tuổi của cha tôi, buổi chiều tháng Chạp năm đó: Tôi bốn muơi lăm tuổi, và tôi lại nhìn thấy khung cảnh bữa đó, thật là rõ ràng đến không thể tin được, cứ như thể nó đang xẩy ra trước mắt tôi, mặc dù tất cả những người ở trong khung cảnh đó thì đều đã chết, trừ tôi ra. Tôi nhìn thấy cảnh đó quá rõ, quá thật đến nỗi tôi có thể, và bèn nháy mắt lại với Đại Uý F.M…. Nhưng làm như thế, là có nghĩa gì" Giữa hai cái nháy mắt, cách nhau gần bốn chục năm, liệu có một ý nghĩa, và ý nghĩa này, nó chừa tôi ra, nó tránh né tôi" Liệu, đời sống là như vậy đó" Nếu không phải như vậy, thì tại sao có sự rõ ràng đó" Rõ ràng như vậy, là để làm gì" Câu trả lời độc nhất đối với tôi,là: Rằng, cái giây phút đó, khung cảnh đó hiện hữu, rằng, không thể nào quên được, cho dù những diễn viên đã bỏ đi, kể cả chính tôi. Chỉ bằng cách như vậy bạn mới thực sự hiểu ra được điều quí giá biết là chừng nào này: chiến tranh hết rồi, và bây giờ hòa bình tới. Nó tới, và nó lừng lững đi vào trong một gia đình, là gia đình tôi. Cũng cùng một “dấu ấn” như vậy, bạn sẽ hiểu ra được những giây phút, những thời điểm, rằng chúng “có đó”. Hãy kể ra này: Sự trở về, từ chiến trường, của một ông bố, sự mở ra, một cái thùng, mang từ Trung Hoa về. Chính vì thế mà nó rõ ràng, nó hiển hiện, như vừa xẩy ra, như đang xẩy ra. Hay là, biết đâu đấy, có khi chỉ vì bạn là con trai của một ông bố nhiếp ảnh viên, và cái hồi ức của bạn, nó mở ra, giản dị như một cuộn, một thước phim. Chụp với hai con mắt, với tầm nhắm, của chính bạn, hầu như từ bốn chục năm về trước. Chúng vì vậy, cho nên bạn mới không thể nháy mắt đáp lại, vào lúc đó.

14

Cha tôi mặc bộ đồ Hải Quân chừng hơn hai năm. Đó là đúng vào lúc mà tuổi thơ của tôi bắt đầu, bằng tất cả sự hồ hởi của nó. Ông là sĩ quan nhiếp ảnh, thuộc bộ nhiếp ảnh Viện Bảo Tàng Hải Quân, tọa lạc tại một tòa building đẹp nhất trong toàn thành phố. Nói rõ hơn, trong toàn đế quốc. Toà building này trước thuộc Viện Hối Đoái, từ thuở xa xưa lắm rồi, và nó cũng thật xa xưa, nghĩa là ở cuối con đảo Basil Island, ở miệng con sông Neva River, nơi nó há thật rộng ra.
Vào thật xế chiều, tan học, tôi theo những con phố tới tận con sông, đi qua cây cầu Palace Bridge, và chạy vô viện bảo tàng để đón cha tôi, và hai cha con cùng đi về nhà. Tuyệt vời nhất, là những lần, ông là sĩ quan trực buổi chiều, khi viện bảo tàng đã đóng cửa. Ông sẽ xuất hiện, đâu đó, từ hành lang dài bằng cẩm thạch, thật là uy nghi, thật là bệ vệ, với tấm băng mầu xanh trắng xanh của vị sĩ quan trực đeo vòng qua cánh tay trái, bao súng phía bên phải, và cùng với nó, là sợi dây lưng; mũ Hải Quân, lưỡi trai bóng loáng và cái “salad” [cái dĩa] mạ vàng ở phía trên che cái đầu hói thường làm ông lúng túng. “Xin chào, Trung Tá,” tôi sẽ nói như vậy, vì đó là cấp bực của ông; ông cười, và, vì còn cả tiếng nữa mới hết giờ trực, ông để mặc tôi thơ thẩn trong viện bảo tàng.
Tôi tin tưởng một cách sâu xa, rằng, ngoài văn học hai thế kỷ vừa qua, và có lẽ, kiến trúc của thủ đô cũ, điều độc nhất còn lại mà người dân Nga tự hào, đó là lịch sử Hải Quân của họ. Không phải bởi vì những chiến công hiển hách, mà cũng chẳng có nhiều, nhưng mà là tinh thần hải quân phong nhã của nó. Coi đây là một phong cách riêng, hay quá nữa, một bệnh tưởng, thì cũng được, nhưng cái đầu óc trẻ con của một tay “viễn mơ” độc nhất, trong số những hoàng đế Nga, Đại Đế Peter đó, có vẻ như với tôi, đúng là của một kẻ vượt qua đường ranh giữa văn chương như đã nói ở trên, và kiến trúc. Mô phỏng Hải Quân Anh, nhưng có tính trình diễn nhiều hơn là để làm việc, trang bị bằng tinh thần khai phá, hơn là tham vọng bành trướng, thú cái thú làm một cử chỉ anh hùng, làm một hành động tự hy sinh, hơn là sống còn bằng mọi giá, một Hải Quân như thế đó đúng là một viễn ảnh: của một trật tự hoàn hảo, hầu như mang tính trừu tượng, được nẩy sinh từ bên trên những vùng trời nước của những đại dương của thế giới, không thể nào với tới nổi, cho dù đứng ở bất cứ nơi chốn nào, trên mảnh đất Nga.
Một đứa trẻ thì luôn luôn, trong tất cả mọi chuyện, là một tay thẩm mỹ, mê cái đẹp. Nó đáp ứng liền tù tì với những vẻ ngoài, những bề mặt, những hình dáng, những thể loại. Đứa trẻ là tôi hồi đó, mê nhất trên đời, là mấy ông đô đốc, râu ria cạo nhẵn thín, nhìn thẳng, hay nhìn nghiêng, trong những khung mạ vàng, mờ mờ hiện ra giữa một rừng những cột buồm, trên những kiểu mẫu tầu, chúng như đang cố làm sao để trở thành những con tầu thực. Trong đồng phục thế kỷ 18 và 19, với những viền ren, những khăn cổ cao, những đai, gù, tóc giả, băng xanh quàng chéo ngực, chúng giống như những dụng cụ [nhằm phục vụ] cho một lý tưởng tuyệt hảo, trừu tượng, cũng chẳng kém chính xác, nếu so với những astrobales mép viền đồng, dùng để đo độ cao mặt trời, các vì sao, những chiếc la bàn, những hộp phi từ tính, những kính lục phân xác định vị trí tầu. Long lanh, Lấp lánh, chúng có thể tính ra vị trí của một con người, dưới những vì sao, với một sai sót nhỏ hơn, nếu so với chính những sư phụ của chúng! Và người ta chỉ còn mong, có một điều, chúng có thể đã từng cai trị những đợt sóng người, cũng bảnh như vậy, theo nghĩa: những làn sóng nhân sinh này được bầy ra, trước những nghiêm ngặt của môn luợng giác chứ không phải trước cái mặt dầy của những nhà ý thức hệ. Là một tưởng tượng của một viễn tưởng, tức một cái nhìn xa trông rộng, có lẽ, một ảo ảnh, thay vì là một phần của thực tại. Cho tới ngày này, tôi vẫn nghĩ, đất nước sẽ khấm khá hơn nhiều, hoặc sẽ không khốn khổ khốn nạn như vậy, nếu nó không lấy cái mảnh vải khốn kiếp đó làm quốc kỳ: một con gà hoàng gia hai đầu khùng, hay cái búa cái liềm của một hội kín, của đám mafia, và, thay vì lá quốc kỳ khốn kiếp đó, thì là ngọn cờ của Hải Quân Nga: ngọn cờ hiển hách, đẹp không thể có cờ nào đẹp hơn, lá cờ St. Andrew: một chữ thập chéo mầu xanh trên một nền trắng trinh nguyên.

15

Trên đường về nhà, cha con tôi sẽ ghé tiệm, mua đồ ăn, hay vật liệu dùng trong phim ảnh, như phim, thuốc hoá học, giấy in, hay dán mắt vào những khung cửa kính. Vì con đường về nhà đi qua trung tâm thành phố, cha tôi sẽ kể cho tôi nghe lai lịch những cơ ngơi, cửa hàng, cái nào có trước chiến tranh, hoặc trước năm 1917. Ai là nguời kiến trúc, ai là chủ, ai ở đó, và chuyện gì đã xẩy ra cho họ, và theo quan điểm của cha tôi, tại sao lại xẩy ra như vậy. Ông Trung Tá Hải Quân cao mười feet biết khá nhiều về cuộc sống dân sự, và dần dần, thằng con nhìn bộ quân phục của ông bố giống như là một thứ giả trang, hay rõ hơn, ý thức phân biệt giữa, thế nào là hình thức, thế nào là nội dung, bắt đầu bén rễ ở trong tôi. Bộ đồng phục của ông phải đối phó với hậu quả này, thì cũng không khác gì cái cơ ngơi mà ông đang giơ tay chỉ, phải ứng phó. Trong cái đầu của một đứa học sinh, chính cái hiện tượng “xanh vỏ đỏ lòng” này, lẽ tất nhiên, là một mời gọi, hãy nói láo, nói dối. Nói như vậy không có nghĩa là, tôi cần một lời nói dối. Như tự trong thâm tâm, tôi hiểu ra một điều, hãy cố mà giữ cho được một bề ngoài, cho dù trong lòng mi sôi sục ra sao.
Tại nước Nga, lính tráng khó thành dân sự, ngay cả ở nhà của họ. Điều này, một phần, là do cái tủ quần áo, vốn chẳng bao giờ rộng; nhưng chủ yếu, đây là vấn đề liên quan tới quan niệm về quyền thế gắn liền với bộ đồng phục và từ đó, tới vị thế của bạn trong xã hội. Đặc biệt hơn, nếu bạn là sĩ quan. Ngay cả mấy ông giải ngũ, hay về hưu cũng suốt ngày đóng bộ quần áo bộ đội, ở nhà, ở giữa chốn bàn dân thiên hạ: coi kìa, cái ông kia như vậy là trước ở “R”, ở “B” đấy nhé! Cái áo đại cán kia, bộ ghệt cao đó, lại còn ngôi sao vàng nữa chứ, đâu phải anh bộ đội Cụ Hồ nào cũng có được, phải là dân ra vô Bắc Bộ Phủ… Bởi vì đã có một thời ta làm quan, có nghĩa là suốt đời ta làm quan, đúng không nào" Hơn nhau ở bộ quần áo, mà bộ đồng phục Hải Quân, là số dách, bởi vì cái khăn quàng mầu trắng của nó, mới ấn tượng làm sao!
Trong nhà của chúng tôi, có cả đống, ở trong ngăn kéo trên của cái tủ lớn. Những năm sau đó, khi tôi đã lên lớp bẩy, đồng phục được đưa vô trường học, mẹ tôi bèn cầm mớ quần áo của bố, ướm lên thằng con, rồi cắt xén thành bộ đồng phục học sinh. Bởi vì bộ đồng phục đó thì cũng một nửa là lính: áo tunic, dây lưng có khoá, quần áo đi đôi với nhau, một cái mũ có luỡi che mặt bóng loáng. Mấy anh tưởng bở, nghèo mà ham, đã nghĩ về mình như là một “chiến sĩ”, tốt hơn nữa, là một anh bộ đội Cụ Hồ! Thì cũng tốt thôi, ngay cả đối với tôi, nhưng có điều, tôi không khoái, cái mầu của bộ đồ, nó giống như của đám bộ binh, hay tệ hơn, của một anh công an, tức một chú bò vàng! Chẳng làm sao bì được với cái áo khoác ngoài của cha tôi, với hai hàng nút vàng, cứ như là một đại lộ về đêm! Và khi ông bố của tôi cởi từng cái nút áo, để lộ ra bộ đồng phục tunic xanh đậm, với cũng hai hàng nút áo y chang: một đại lộ tù mù trong đèn đêm, một thứ ngoại ô đèn vàng đây chăng"
[Cả đoạn trên, là phóng tác, không phải dịch. NQT]
“Một con phố ở trong một đại lộ”, “A street within an avenue”, đó là ý nghĩ của tôi, về ông bố của mình, khi lé mắt nhìn ông, trên đường từ bảo tàng viện về nhà.

16

Có hai con quạ ở sân sau nhà tôi, ở đây, tại South Hadley. Hai con quạ lớn, loại raven-size, và chúng là những gì đầu tiên mà tôi nhìn thấy, mỗi lần đi, hoặc về nhà. Chúng xuất hiện từng con một: con đầu, cách đây hai năm, khi mẹ tôi mất; con thứ nhì, năm ngoái, ngay sau khi cha tôi mất. Có thể, đây chỉ là cách mà tôi nhận ra sự hiện diện của hai con quạ ở sân sau nhà mình. Bây giờ, thì chúng cùng tới, và cùng vỗ cánh bay đi, và cả hai đều quá lặng lẽ, so với những con quạ khác. Tôi cố không nhìn chúng; ít ra, tôi cố không theo dõi chúng. Tuy nhiên, tôi nhận ra một điều là hai con quạ này thường đậu ở đám rừng thông bắt đầu từ cuối sân nhà tôi và chạy dài chừng một phần tư dặm đường, tới bãi cỏ ở ven thung lũng nhỏ có vài viên đá cuội thật bự ở mãi cuối thung lũng. Tôi không bao giờ đi bộ tới cuối thung lũng nữa, vì sợ rằng là, sẽ nhìn thấy hai con quạ nằm ngủ trên đỉnh hai hòn đá cuội duới ánh sáng mặt trời. Tôi cũng chẳng bao giờ kiếm cách nhìn thấy chúng, ở trong tổ. Hai con quạ đen, nhưng tôi để ý thấy ở phía bên trong cánh của chúng có chút mầu tro ướt. Thời gian độc nhất mà tôi để ý không thấy chúng, đó là lúc trời mưa.

17

Vào năm 1950, theo tôi, cha tôi được giải ngũ, cùng với nghị quyết của Trung Ương Đảng, theo đó, nhân dân nào gốc Do Thái thì không nên giữ những đẳng cấp cao ở trong quân đội. Nghị định này được khởi động, nếu tôi không lầm, là do Andrei Zhdanov, lúc đó phụ trách kiểm tra ý thức hệ trong toàn cõi nhà binh. Vào thời gian đó, cha tôi đã bốn muơi bẩy tuổi, và như vậy là, ông lại phải bắt đầu cuộc đời của ông, làm lại nó như mới, nói như vậy cho thật đẹp. Cha tôi bèn quyết định trở lại với cái nghề ký giả, với cái nghề phóng sự bằng hình ảnh. Tuy nhiên, muốn làm vậy, ông cũng phải được tuyển dụng bởi một tạp chí, hay một nhật báo. Việc này hóa ra khó vô cùng: thập niên 1950 quá bết bát cho những người Do Thái. Chiến dịch chống “đám vô tổ quốc không có gốc rễ” [rootless mosmopolites] đang vào lúc cao điểm nhất của nó; rồi thì, vào năm 1953 lại xẩy ra “Trường hợp mấy ông Bác sĩ”, và, nếu vụ này không kết thúc bằng một biển máu như thường lệ phải như thế, ấy là do chính Đồng chí Stalin, người khởi xướng, không hiểu sao, bất thình lình bỗng suy sụp, bèn tung hê tất cả. Nhưng thời gian dài trước đó, và một thời gian sau đó, đã đầy những lời đồn, những rỉ tai, là Bộ Chính Trị đang lên kế hoạch càn quét đám Do Thái, tái định cư đám loài vật thuộc “phần năm” [paragraph five] này vào khu Siberia phía Đông, một vùng có tên là Birobidzhan, gần biên giới Trung Hoa. Còn có cả một lá thư được lưu hành, thư này được ký tên bởi những cá nhân nổi tiếng nhất trong “phần năm” - những kỳ thủ, những nhà soạn nhạc, và những nhà văn – nội dung của nó là một lời thú nhận tội lỗi gửi tới Ban Bí Thư Trung Ương Đảng, và cá nhân Đồng Chí Stalin, xin cho phép chúng tôi, những người Do Thái, được cứu chuộc, bằng lao động khổ sai tại những vùng thật là xa xôi, về những tội ác lớn lao mà chúng tôi đã gây ra đối với nhân dân Nga. Lá thư này sẽ xuất hiện trên nhật báo Sự Thật, trong bất cứ một ngày đẹp trời nào đó, như là cái cớ, the pretext, cho việc tống xuất đám Do Thái chúng tôi.
Ô hô, ai tai, thượng hưởng: Tuy nhiên, điều xuất hiện trên tờ Sự Thật, sau cùng lại là thông báo về cái chết của Stalin.

[còn tiếp]
NQT dịch
tanvien.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạp chí Văn Học Mới số 5 dày 336 trang, in trên giấy vàng ngà, bìa tranh nghệ thuật của Nguyễn Đình Thuần, sáng tác từ hơn 50 nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo và phê bình nghệ thuật.- Văn Học Mới số 6 sẽ ấn hành vào tháng 3/2020, có chủ đề về nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn
Một tuyệt phẩm thi ca gồm những bài thơ dị thường chưa bao giờ xuất hiện bất cứ đâu, viết bởi một thi sĩ dị thường. Tựa: Tuệ Sỹ Ba ngôn ngữ: Việt - Anh - Nhật Dịch sang tiếng Anh: Nguyễn Phước Nguyên Dịch sang tiếng Nhật: G/s Bùi Chí Trung Biên tập: Đào Nguyên Dạ Thảo
Mùa thu là cơ hội bước sang trang mới khi nhiệt độ bắt đầu dịu lại. Trong mùa này, người dân California không cần mở điều hòa không khí lớn hết cỡ và cũng còn quá sớm để lo chạy máy sưởi.
Garden Grove xin mời cộng đồng tham gia chương trình đóng góp tặng quà cuối năm nhằm mang lại niềm vui, hy vọng và giúp đỡ cho những trẻ em địa phương không có quà trong mùa lễ Noel.
Ngồi niệm Phật miên man, dù cố tâm vào Phật hiệu nhưng hôm nay vẫn không sao “ nhập” được, đầu óc nó cứ văng vẳng lời anh nó lúc sáng: - Tu hú chứ tu gì mầy!
Một đường dây buôn người bán qua TQ do một phụ nữ Việt là nạn nhân buôn người trước đây tổ chức vừa bị phát hiện và bắt 2 người tại tỉnh Nghệ An, miền Trung Việt Nam, theo bản tin hôm 5 tháng 12 của Báo Dân Trí cho biết.
Điều trần luận tội đầu tiên của Ủy Ban Tư Pháp Hạ Viện đã nhanh chóng nổ ra cuộc đấu đá nội bộ đảng phái hôm Thứ Tư, 4 tháng 12 năm 2019, khi các nhà Dân Chủ cáo buộc rằng Tổng Thống Donald Trump phải bị truất phế khỏi chức vụ vì tranh thủ sự can thiệp của nước ngoài vào cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ và đảng Cộng Hòa giận dữ vặn lại không có căn cứ cho hành động quyết liệt như vậy.
Đó là cuộc khảo sát của công ty tài chánh WalletHub đối với 182 thành phố khắp Hoa Kỳ, để xếp thứ tự an toàn nhất cho tới bất an nhất. Cuộc nghiên cứu dựa trên 41 thước đo liên hệ tới an toàn
Cảnh sát đã bắn chết một người đàn ông cầm dao tại El Monte, Nam California hôm Thứ Hai.
Một phần thưởng 50,000 đô la được đưa ra để bắt một người đàn ông của thành phố Burnaby đã bị truy nã trước đây vì tội rửa tiền như một phần của nhóm tội phạm có tổ chức người Việt Nam hoạt động tại Canada và Hoa Kỳ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.