Từ thứ Hai 3/9/07 vừa qua, khi đi vào trung tâm thành phố Sydney người ta không khỏi mang một cảm giác rằng đây là một thành phố đang ở trong tình trạng thiết quân luật, một thành phố đang bị đe dọa với những bức chắn bằng lưới thép bao quanh đường phố và hằng hà sa số cảnh sát tuần tiểu khắp nơi, chận xét người qua lại hoặc đứng canh rải rác theo từng góc phố. Nhiều đường phố bị chặn nghẽn hoặc thu nhỏ lại khiến sự lưu thông bị tắc nghẽn, gây không ít phiền toái cho người dân. Nhiều hàng quán cửa tiệm trong các khu vực bị ảnh hưởng trở nên ế ẩm, vắng lặng như chùa bà đanh và có một số chủ nhân quán ăn cho biết họ đã phải cho nhân viên nghỉ việc không ăn lương trong những ngày tới đây vì hàng họ ế ẩm. Hệ thống giao thông công cộng bị đình trệ. Nhà hát con sò Opera House trong suốt cuối tuần tới đây sẽ là cấm địa, công chúng không được quyền vãng lai. Tất cả chỉ để chuẩn bị cho hội nghị hiệp thương APEC (Asia Pacific Economic Co-operation - Hợp Tác Kinh Tế Khu Vực Á Châu Thái Bình Dương)!
Những sự phiền toái khó khăn này khiến người dân Sydney không khỏi thắc mắc rằng những lợi ích từ hội nghị này có đáng để người dân phải chịu đựng những thiệt thòi, phiền toái như thế hay không" Vô số thính giả của các chương trình truyền thanh trực thoại đã lên tiếng than phiền rằng đây là một sự phiền toái vô bổ, thật sự chẳng mang lợi lộc gì đến cho nước Úc, cho Sydney mà ngược lại, còn tạo nhiều thiệt thòi cho những người dân bình thường. Những lời than phiền ấy có chính xác không" Có phải hội nghị APEC chỉ là một thứ tuồng diễn trông có vẻ xôm tụ nhưng thực chất chẳng là gì cả hay không"
Tưởng cũng nên nhắc lại, cựu thủ tướng Bob Hawke của Úc là người đã có sáng kiến thành lập APEC vào năm 1989, khởi sự với cuộc họp của các bộ trưởng ngoại giao của nhiều quốc gia trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương tại Canberra vào năm đó. Cho đến lúc ấy, tuy là hàng xóm của các quốc gia trong khối ASEAN và có quan hệ ngoại giao mật thiết với nhiều quốc gia trong vùng, nhưng nước Úc lại không được là thành viên của bất kỳ một tổ chức nào mang tầm vóc quốc tế trong khu vực này cả. Và cũng cho đến lúc ấy thì nước Úc chỉ là thành viên của vỏn vẹn hai tổ chức quốc tế là Khối Thịnh Vượng Chung (Commonwealth) - bao gồm các cựu thuộc địa của đế quốc Anh thuở xưa và là một tổ chức mà tầm quan trọng trên diễn đàn quốc tế ngày càng giảm thiểu - và Diễn Đàn Nam Thái Bình Dương (South Pacific Forum). Thế thôi!
APEC, như danh xưng của nó, là một tổ chức hoàn toàn chuyên chú vào việc mở rộng hợp tác kinh tế và thương mãi giữa các thành viên kinh tế. Và từ khi được thành lập cho đến nay, nó đã đạt được một số thành quả không nhỏ, đặc biệt là kể từ khi cựu thủ tướng Paul Keating nâng cấp APEC năm 1991, tăng thêm phần quan trọng cho tổ chức này qua việc tổ chức hội nghị thượng đỉnh giữa các nguyên thủ thành viên một cách thường xuyên hơn, để đến bây giờ thì APEC có 21 thành viên, trong đó có cả Trung Hoa và Việt Nam.
Năm 1994, các nhà lãnh tụ APEC đồng ý một viễn kiến chung là biến khu vực Á Châu Thái Bình Dương thành một khu thương mại tự do, giảm thiểu những bức tường chắn cản trở việc xuất nhập cảng hàng hóa giữa các thành viên, không đánh thuế nhập cảng hàng hóa (tariff).v.v. Tuy viễn kiến này vẫn chưa được hoàn toàn hiện thực, nhưng đã có một sự cởi mở rõ rệt so với khi xưa. Có nhiều người cho rằng APEC đã là một nhân tố quan trọng trong việc giúp cho Á Châu trở thành khu vực có nhịp độ phát triển mạnh mẽ nhất thế giới hiện nay, và APEC cũng đồng thời đóng góp không ít cho sự thịnh vượng của nước Úc ngày hôm nay.
Tuy chỉ là một tổ chức nhằm phát triển kinh tế, nhưng các vị nguyên thủ của các thành viên kinh tế APEC, trong các kỳ họp thượng đỉnh thường niên, có thể thảo luận về bất kỳ một vấn đề nào mà họ cảm thấy là quan trọng, khả dĩ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và thương mãi trong vùng. Thí dụ điển hình là vấn đề an ninh thế giới và phòng chống khủng bố kể từ năm 2001 cho đến nay, hoặc vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu và việc chuyển nhượng, mua bán phần khí thải carbon (carbon trading) gần đây.
Thế nhưng, tầm quan trọng của APEC có thật sự lớn lao trên diễn đàn thế giới hay không" Nếu so với các cuộc hội nghị thường niên của G8 (8 cường quốc kinh tế) hoặc của World Economic Forum thì APEC thật sự chẳng là gì cả, bởi vì hai cuộc hội nghị nói trên chẳng những có sự hiện diện của nguyên thủ các cường quốc mà còn thu hút được giới lãnh đạo kinh tế, thương mại kỹ nghệ toàn cầu nữa, những người thật sự giật giây điều khiển cho sự phát triển kinh tế thương mãi toàn thế giới.
Theo thiển ý thì chẳng những APEC không tài nào sánh được với G8 hoặc WEF mà nó lại càng không thể nào so sánh được với những tổ chức hội nghị mang tính khu vực khác trên thế giới, chẳng hạn như European Union (EU) hoặc OAS (Organisation of American States - Tổ Chức Các Quốc gia Mỹ Châu) hay OAF (Organisation of African Unity - Tổ Chức Thống Nhất Phi Châu). Thậm chí ngay cả ASEAN cũng còn hữu ích nhiều hơn APEC. Cuộc họp của các nguyên thủ kinh tế APEC giỏi lắm thì cũng chỉ như cuộc hội nghị của các nhà lãnh đạo trong Khối Thịnh Vượng Chung (Commonwealth Heads of Government Meeting - CHoGM) mà thôi, bởi vì chương trình nghị sự lỏng lẻo và du di, và bất kỳ một sự thỏa thuận nào trong hội nghị cũng chỉ mang tính tự nguyện hơn là ràng buộc.
Hơn thế nữa, từ khi được thành lập cho đến nay, có rất nhiều vấn đề quan trọng trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương khả dĩ ảnh hưởng trầm trọng đến việc phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên nhưng đã bị gác sang một bên, bị xếp vào một xó, không hề được bất kỳ một quốc gia hội viên nào, kể cả Úc - một quốc gia thường tự hào với truyền thống dân chủ tự do, yêu chuộng công bằng xã hội, tôn trọng công lý và lẽ phải - nhắc nhở đến. Điển hình là vấn đề vi phạm nhân quyền trầm trọng của một số thành viên như Trung Hoa và Việt Nam.
Mặc dầu các tổ chức bảo vệ nhân quyền như Ân Xá Quốc Tế, như Human Rights Watch liên tục nêu lên những hành vi chà đạp nhân quyền, chà đạp dân chủ tự do tại hai nước cộng sản độc tài chuyên chế này, nhưng dường như cả chính phủ Úc, lẫn chính phủ Hoa Kỳ, vẫn luôn bịt mắt, che tai, bụm miệng không hề muốn biết, muốn nhắc nhở đến vấn đề này.
Tuần qua, giới lãnh đạo phong trào lao động và công đoàn từ các quốc gia trong vùng Á Châu Thái Bình Dương cũng đã hội họp tại Sydney để bàn thảo và trao đổi về một số vấn đề khác mà APEC cũng đã lãng quên: việc vi phạm quyền làm người của công nhân lao động tại các quốc gia trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương cũng như việc khu vực này, đặc biệt là Á Châu đã trở thành trung tâm điểm hoạt động cho bọn buôn người buôn lậu phụ nữ và trẻ em làm nô lệ tình dục.
Trong cuộc hội nghị lần thứ 13 của Asia Pacific Labour Network (APLN) - Mạng Lưới Lao Động Á Châu Thái Bình Dương - các nhà lãnh đạo công đoàn trong vùng đã lên tiếng kêu gọi hội nghị APEC hãy mở rộng tầm nghị sự để có thể đáp ứng với hiện thực kinh tế và xã hội của dân chúng trong khu vực này, thay vì chỉ chuyên chú hạn hẹp vào thương mại và đầu tư mà thôi. Hơn phân nửa (52%) dân số những người làm việc ăn lương trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương, gần 1 tỷ người, mỗi ngày chỉ lãnh được dưới 2 Mỹ Kim. Cơ hội có được công ăn việc làm đàng hoàng ngày càng hiếm hoi và vì sự khủng hoảng về công ăn việc làm này mà ngày càng có nhiều người trong vùng phải làm việc dưới những điều kiện khắc nghiệt.
Bà Sharon Burrow chủ tịch tổng liên đoàn lao công Úc Châu ACTU và đồng thời là chủ tịch Liên Minh Công Đoàn Quốc Tế (International Trade Union Confederation) - một tổ chức đại diện 168 triệu công nhân tại 153 quốc gia - tuyên bố trong buổi họp rằng: "Càng ngày càng có nhiều người không thể tìm được việc làm thường trực và những người nào may mắn tìm được việc làm thì lại phải đối diện với việc tiền lương bị cắt giảm và những bổn lộc (benefit) khác bị cắt bỏ. Tại nhiều quốc gia, mặc dù mức sản xuất có gia tăng nhưng tiền lương công nhân lại không được tăng theo, thậm chí mức tăng lương cũng không theo kịp với mức lạm phát. Thời giờ làm việc thì lại càng dài hơn và điều kiện làm việc thì lại càng bị rút ngắn. Triệu triệu người, vì muốn kiếm sống, đã phải làm việc tại những nơi mà quyền công nhân hoàn toàn không hiện hữu".
Sự kêu gọi của hội nghị rằng "các nhà lãnh đạo quốc gia trong khu vực của chúng ta cần phải đưa ra nhiều giải pháp hầu bảo vệ nhân quyền và quyền lao động trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương cũng như ngăn chận việc bóc lột, đàn áp công nhân di dân, phụ nữ và trẻ em" có lẽ rồi cũng sẽ trôi vào quên lãng như những lời kêu gọi của các tổ chức bảo vệ nhân quyền trước đây.
Vì thế, là công dân Úc gốc Việt Nam tỵ nạn cộng sản, chúng ta phải có hành động thiết thực chẳng những để tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do dân chủ ở quê cha đất tổ mà còn để bảo vệ cho những quyền rất căn bản này không bị bào mòn, đục ruỗng tại quê hương thứ hai của chúng ta, tại nơi chôn nhau cắt rốn của con em chúng ta.