Thứ nhứt, về kinh tế. tham nhũng đã là tai hoạ của kinh tế. ù Tin BBC cho biết hội nghị thường niên của nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Hà nội vay tiền phát triẽn kinh tế, họp tại Hà nội từ 2 đến 2 tháng 12, đã thấy nguy cơ tham nhũng là một bịnh trầm kha rất nguy hiễm cho chế độ. Từ khi CS Hà nội chuyển hệ sang kinh tế thị trường, đã có 11 cuộc họp như thế. Nhưng đây là lần đầu tiên tổ chức liên quốc này có một nhận xét như vậy. Hội nghị vẫn hứa cho CS Hà nội vay 2 tỷ 8 Đô la, nhưng nghiêm khắc khuyến cáo Hà nội phải bài trừ tham nhũng. Vì tham nhũng ở VN theo nhận xét của Hội nghị là một tai hoạ lớn nhứt mà CS Hà nội phải đối phó. Tham nhũng đã đã nhập lý trong guống máy Đảng, Nhà Nước, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, trong Đảng ra ngoài Nhà Nước. Tệ hại hơn nó đã thâm nhập vào những công tác nhỏ nhặït và thường ngày, như sửa chửa đướng sá, xin những giấy tờ ở cơ quan ấp xã, và các công tác thuần túy xã hội nhân đạo như y tế, giáo dục. Tình hình tham nhũng trong chế độ CS Hà nội khác với của các nước nghèo thường xảy ra tham nhũng. Thay vì tham nhũng bớt đi khi kinh tế dễ thở hơn, đằøng này tham nhũng CS kinh tế càng khá hơn, tham nhũng càng rộng và mạnh hơn. Không thể làm giảm tham nhũng bằng cách như cho tăng lương cán bộ, công nhân viên Đảng, Nhà Nước. Kinh tế càng phát triễn nhịp độ, mức độ, và cấp độ tham nhũng càng trầm trọng hơn. Nhưng việc chống tham nhũng của CS Hà nội chỉ có tánh phong trào, chỉ làm khi nào quốc tế la lối, đánh trống rồi bỏ dùi. Nhiều khi phe phái trong Đảng, Nhà Nước dùng việc chống tham nhũng để hạ nhau hơn là chống tham nhũng đích thức. Ai trong Đảng, Nhà Nước cũng tham nhũng, diệt thì còn ai đâu mà xài. Diệt tham nhũng là diệt Đảng, Nhà Nước.
Hai, về chánh trị. Phong trào dân chủ hoá đã trở thành một tiến trình không thể đảo ngước được nữa. CS Hà nội đã tương kế tựu kế khá thành công để hoá giải đòn dân chủ hoá bàng kinh tế, của nước ngoài . Giai cấp trung lưu lực lượng theo thông lệ cách mạng, là lực lượng làm thay đổi chánh trị, không lớn được ở VN. Ở nông thôn, chủ đất tái sanh. Nhưng đại đa số những người giàu lên, được cấp đất, mua lại đất của nông dân ùa ra thành kiếm sống, là những cán bộ, đảng viên ở xã ấp, biến thành cường hào ác bá đỏ. Ở thành thị, giai cấp trung lưu phát sanh không nổi khi VN chuyển sang kinh tế thị trường vì CS đã biến họ thành những người ăn theo, những tư bản đỏ. Còn công nhân tư sở thì không có nghiệp đoàn độc lập. Công nhân quốc doanh thì công đoàn cánh tay mặt của Đảng bám chặt như sam. Công nhân làm cho các công ty nước ngoài tiến bộ nhứt, nhưng quá ít. Cán bộ công nhân viên của Đảng, Nhà Nước thì khỏi nói; Phòng Tổ chức, Bảo vệ chánh trị nắm chắc khư. Còn các nước tự do, dân chủ có tương quan với chế độ CS Hà nội có cố gắng thúc đẩy tiến trình dân chủ hoá VN nhưng bất thành. Từ Tây Aâu, Bắc Mỹ, Uùc châu các nước gìúp Hà nội về kinh tế có dùng nhân quyền, tự do tôn giáo áp lực CS Hà nội. Nhưng CS Hà nội có lá chắn là Hiệp Hội Đông Nam Á bảo vệ, làm ăn với Tây Phương thẳng không được thì đi vòng qua các nước AEAN vẫn giao thương được với Tây Phương.Các lực lượng tư do, dân chủ trong ngoài nước chưa ai làm gì được. Chế độ CS Hà nội dù trong thời kỳ đổi mới kinh tếvẫn là một nhà cầm quyền mạnh đối với xã hội VN.
Nhưng trong nội bộ CS Hà nội bên trong đang lâm trọng bịnh. Đồng Đô la là một viên thuốc độc bọc đường. Vì nó Đảng đã mất tính đấu tranh, phân hoá vì thân Mỹ, thân Tàu, chia rẽ vì suy bì kèn cựa và kỳ thị Bắc Nam. Tham nhũng đã biến đảng thành rệu rã hơn bao giờ hết trong lịch sử Đảng từ khi có mặt ở VN, kể cả những lúc thoái trào cách mạng, đại đa số nằm trong nhà tù. Trong khi đó bên ngoài Đảng, Nhà Nước, một lực lượng có thể làm thay đổi chánh trị đang lên. Phong trào đấu tranh của nhân dân đã phát triễn dần đến giai đoạ phẩm biến thành lượng, điểm sang diện. Phong trào này chẳng những phát triễn trong quân chúng nhân dân, mà đã thẩm thấu vào guồng máy công quyền. Trong Đảng đã có người ly khai, chống đối ra mặt. Quốc Hội dù do CS Hà nội khống chế cũng có khi, có người la lối đòi sửa chửa.
Sau cùng, dựa vào học lý cận đại về tương quan giữa phát triễn kinh tế và dân chủ, chánh trị CS Hà nội tất yếu phải thay đổi.. Trường phái của Barrington More qua tác phẩm Social Origins of Dictatorship and Democracy( 1996) và sau này Rueschemeyer, Evelyne Stephens phát triễn thêm, cho kinh tế phát triễn sẽ sanh giai cấp trung lưu và giai cấp này sẽ là tác nhân cuộc thay đổi chánh trị dân chủ. Tức là thay đổi do bên ngoài chế độ. Còn trường phái của Martin Gaiborough, Trung Tâm Nghiên cứu Phi Châu và Đông Phương, trụ sở tại Anh, qua công trình "Thay đổi Chánh trị ở VN: in Search of the Middle Class Challenge", nhấn mạnh sự thay đổi do bên trong guồng máy của chế độ. Oâng phân tích nhà cầm quyền CS bên ngoài coi mạnh như vậy, chớ không mạnh như người ta tưởng. Xem Công An đầy đường thì thấy nhà cầm quyền mạnh. Nhưng xem việc làm của CôngAn chánh yếu lợi dụnh quyền thế để : tự tư tự lợi" mới thấy nhà cầm quyền yếu, không trị tham nhũng được. Quan sát kỹ việc làm của Nhà Nước CS, bộc lộ rõ nét đó là một nhà cầm quyền phân lập năïng. Cấp trên không điều động được cấp dưới; trung ưong nói đia phương không nghe, chỉ cái gì lợi cho địa phương mới làm, với lá chắn của qui luật đảng trong thời chiến. cấp ủy lãnh đạo. Chính những lấn cấn đó tạo thành động lực nội bộ thay đổi chánh trị trong Đảng. Thêm vào quyền lợi địa phương, trách nhiêm và uy danh của các cơ chế hiến định như Quốc Hội, Mặt Trận Tổ quốc sẽ lần hồi đấu tranh chống lại sụ kềm kẹp của Đảng đã biến họ thành cây kiểng của chế đô. Lòng tự trọïng đó đã trổi dậy, như đã thấy Quốc Hội bắt đầu bất tín nhiệm bộ trưởng, chất vấn Hành Pháp cấp Bộ Trưởng, và thảo luận ngân sách thực chất hơn là họp thức hoá ý muốn của Đảng. Chuyển hoá tuy chưa nhiều nhưng đã có chuyển hoá, và chuyển hóa dần đến lúc ngoài vòng kiểm soát phi lý và vô luật của Đảng.
Tóm lại, dù theo khuynh hướng học lý thay đổi do bên trong hay do bên ngoài, thế nào đi nữa chánh trị của chế đố CS Hà nội cũng phải phải đổi thay..