Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

22/11/200900:00:00(Xem: 2668)

Hồi ký: Thép Đen - Đặng Chí Bình

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.

*

(Tiếp theo...)

Thằng Lợi đã hẹn từ một tuần trước, ngày mai chủ nhật tôi sẽ lên nhà của Lợi. Thằng Lợi đã cho tôi một tin bất ngờ, một nguồn hy vọng, từ khi về tôi chưa dám nghĩ tới. Nó đã bỏ tiền để chung với một người, bên cầu chữ Y để đóng hay mua, một chiếc thuyền vượt biên. Tính thằng Lợi tôi đã biết, nó đã chuẩn bị hàng tháng, hôm nay mới cho tôi biết. Nó đã nói rõ:
- Trước đây nó không hoặc chưa nghĩ tới ra đi vì nhiều lý do, chính nó đã nói, nó ở lại để chơi với tụi này (CS) về kinh tế. Nhưng tôi đã trở về, nói cho nó nhiều chuyện về CS. Những thủ đoạn sắt máu, lật lọng, nham hiểm của CS từ ngày thành lập Đảng (3-2- 1930) diễn tiến cho tới ngày nay. Tôi cũng nhấn mạnh: Tuy tao biết khả năng của mày, nhưng mày chơi với chúng về kinh tế, mà mày vẫn nằm trong sự kiềm tỏa của chúng thì rồi sớm muộn, cuối cùng mày sẽ thua. Không những mất hết, mà còn nguy hiểm đến cả tính mạng nữa.
Tôi đã đưa ra những dẫn chứng bằng người thực, việc thực từ thời Pháp, Nhật, chính phủ liên hiệp, Quốc gia, ngoài Bắc trong Nam v.v… Nó đã phải suy ngẫm và chắc nó đã chuyển đổi chủ trương, nên mới có quyết định ra đi.
Theo như kế hoạch dự trù của nó, chuyến đi sẽ vào khoảng đầu 1981. Vì tôi không có tiền, hơn nữa tôi mới ra tù, tôi có biết gì về Sài Gòn đâu" Cho nên tất cả mọi vấn đề đều mặc cho Lợi lo toan, tính toán. Tôi cũng chẳng có thời gian để đi tìm hiểu đây đó, vì phải đi làm mành trúc và trình diện CA hàng ngày.
Buổi chiều, từ trên thằng Lợi về tới nhà, thoáng trong nhà qua cửa sổ thấy một cậu bé 15- 16 tuổi đang loay hoay ở dưới bếp với mẹ tôi. Vào tới cửa, nghe thầy tôi nói ngắt quãng:
- Thằng... Khanh! Thằng.... Khanh!
Tôi chả hiểu thằng Khanh nào, thì cậu nhỏ từ bếp đi lên, nó và tôi đều nhìn nhau trân trân, tôi hỏi ngập ngừng:
- Cháu là ai"
Nó chạy đến ôm chầm lấy tôi, miệng mếu máo:
- Bác Bình phải không" Bố mẹ cháu là Lý ạ!
Tôi chợt hiểu, càng ôm chặt rồi bế bổng, cháu Khanh lên! Miệng líu ríu:
- Cháu lên bao giờ"
Mẹ tôi cũng đang lò dò từ dưới bếp đi lên nhà. Sự việc sơ lược về người em trai duy nhất của tôi là …Công Lý: Vào khoảng cuối 1963, em tôi theo chúng bạn gia nhập binh chủng Thiên Thần Mũ Đỏ. Là một trung sĩ đã chiến đấu tung hoành ở nhiều vùng chiến thuật, để rồi cuối 1964 lấy vợ. Cuộc sống và di chuyển thế nào tới hội nghị Paris, em tôi đã mang cả gia đình về sống ở Hồng Ngự, thuộc tỉnh Đồng Tháp, tới cuối 1976, chăm chỉ làm nông nghiệp ở địa phương.
Hai vợ chồng đã có sáu mặt con, thằng Khanh là đứa con trai cả, năm nay đã 16 tuổi. Vào một đêm rằm trăng sáng, em Lý của tôi vẫn ngủ trong một căn nhà lá nhỏ, ở giữa cánh đồng để coi ruộng lúa. Em bị một tên trung đội trưởng du kích xã Tam Nông, bắn vỡ bọng đái chết khi đang ngủ. Do tư thù từ trước, bây giờ thời thế có súng trong tay, nên y đã hạ thủ, để trả thù.
Tôi ngồi nghe mẹ tôi và cháu Khanh thay nhau tường thuật lại, người tôi cứ lịm dần, nhưng ngực của tôi nóng như có lửa đốt. Dựa lưng ghế, mặt tôi ngửa lên nhìn trần nhà, nhưng chả nhìn thấy cái gì, óc của tôi thì căng ra xoay lộn: Thằng Khanh khi ấy 12 tuổi, mẹ tôi đôi mắt đã lòa ngồi một chỗ, sự việc rất lơ mơ, chưa có gì rõ ràng cụ thể. Tôi sẽ thăm dò lại cô Xuân, cô Thu và chính tôi sẽ lên Hồng Ngự, gặp vợ chú Lý với đàn cháu nhỏ, và phải thăm mộ người em trai duy nhất của tôi, (dù em tôi đã nằm yên ở trong mồ). Tôi được biết tên sát thủ đó chỉ bị bắt vài tháng, và hiện vẫn ngông nghênh sống ở địa phương, với nhiều thế lực.
Hai mươi sáu: Thăm mộ em trai
Tôi hiểu sự việc này giải quyết phải có "điểm" và có "thời", điểm "nút" lại chính ở nơi tôi. Tôi đang ở cái thế trên "đe, dưới búa" cả ngày lẫn đêm, vậy hãy "nuốt sâu" vùi lấp nó lại.
Trước mắt hãy đến mộ thăm em tôi một lần, không phải là không có nguy hiểm, nếu tôi không dự trù ứng đối chuẩn bị trước. Tôi chỉ có ngày thứ Bẩy và Chủ Nhật cuối tuần. Tôi viết tờ giấy báo cáo cho phường và CA khu vực: Thăm các cháu, thăm mộ người em, thăm bà chị con ông bác ruột v.v… Đi sáng thứ Bẩy, Chủ Nhật trở về.
Ông Trung úy Mậu ngoài phường chấp nhận, nhưng CA khu vực lại không đồng ý, vì thứ Bẩy đó tôi phải đi hót rác, dọn dẹp chung quanh khu vực chợ Nam Hòa. Cách một thứ Bẩy, phải đi lao động buổi sáng, do Mỹ Lệ đứng điều hành.
Tôi đã đề nghị, sẽ đi lao động vào thứ Bẩy tới, nét mặt cô "ả" cứ câng câng, lắc đầu không đồng ý! Nhìn qủa "cà ghém luộc", lòng tôi hơi tiêng tiếc cái hôm " ả " mò lên căn gác vắng, của tôi! Sau khi suy nghĩ, tôi quyết định cứ đi, đâu có "ngán" gì, khi tôi đã có phường chấp thuận.
Xe đò đi Long Xuyên, Hồng Ngự chật như nêm cối. Đất nước tôi từ Bắc chí Nam đều khốn khổ như nhau. Từ xưa, trên sách báo tôi đã nghe, đã đọc về vựa lúa của đồng bằng sông Cửu Long. Đến nay, cái đồng bằng đó, đang ở ngay trước mặt tôi. Nó rộng và bằng phẳng đến nỗi đứng ở bên đường, tôi có thể nhìn thấy trái đất tròn.
Tôi hơi ngạc nhiên, nhìn trải dài ra cánh đồng ruộng lúa chín vàng, những làn sóng từng hàng lần lượt đuổi nhau nhấp nhô như sóng biển ngoài khơi, chỉ có khác là mầu xanh (của nước) và mầu vàng (của lúa). Trên chiếc xe chật, mùi mồ hôi lẫn vào mùi lúa chín, thành một cái mùi riêng biệt của Đồng Tháp. Để rồi sau này ở xứ Cờ Hoa, tôi ngửi thoáng thấy mùi giò lụa, tôi lại nhớ đến Đồng Tháp Mười ngày ấy.
Cả một cái vung khổng lồ mầu xanh lam của bầu trời, úp chụp lấy mầu vàng óng của lúa chín. Xa xa dưới chân, riềm là một vạch ngang, mầu xám xậm của nhà cửa, cây cối. Ngoài miền Bắc, tôi chưa hề nhìn thấy cảnh này, cái vựa lúa vĩ đại của quê hương yêu dấu đã quấn, hằn vào tâm tưởng.
Thật là lạ kỳ! Sau này, khi tôi được may mắn chiêm ngưỡng bức tranh "Đất, Trời" của Van Gogh, trong bảo tàng viện thành Trier, bên Tây Đức 1992, hồn tôi lại trở về vựa lúa vĩ đại của dân tộc
Xe chỉ đến Long Xuyên, từ Long Xuyên về Hồng Ngự phải đi bằng xe lôi, trên con đường huyện lồi lõm do phục vụ cuộc chiến lâu dài, đào xớì, phá đường, chôn mìn v.v… để rồi nắng mưa đã góp phần, làm cho con đường giờ đây như một cánh tay gầy, đầy ghẻ lở, hắc lào. Chiếc xe lôi nhún nhẩy lắc lư như lên đồng. Nét mặt bác tài xế hằn những vết nhăn trên trán, và quấn quanh miệng, môi bác mím lại, mỗi khi chiếc xe giằn xuống một ổ gà, như nói lên sự an phận, chịu đựng thân phận một người công dân của một chế độ khốn nạn lúc nào cũng vỗ ngực "vì dân và do dân".


Ngôi nhà sàn thương yêu của em tôi, một nửa ghé ra mặt đường, một nửa nằm gác lên con sông Hồng Ngự đầy mầu mỡ phù sa. Con sông thật là rộng, nhìn sang phía bên kia bờ lau sậy, xa hàng hai ba trăm mét, thỉnh thoảng có những chiếc tầu nhỏ, hay ca- nô xì khói chạy ngược giòng vào phía trong hay ra phía ngoài. Nhìn thím Lý chừng 35-40 tuổi nhẫn nhục, ngồi võng đút cơm cho đứa con gái chừng bốn năm tuổi, nhìn ba bốn đứa con trai trần truồng đang nô đùa trên mặt sàn, nhìn căn nhà nửa gỗ, nửa tre, lợp tôn nó đã ôm ấp người em trai độc nhất của tôi bao nhiêu tháng ngày. Bây giờ nó vẫn trân qúy nâng niu, những giọt máu còn để lại cho đời của đứa em. Tiếng nhóp nhép của sóng nước phía dưới sàn vẳng lên, tiếng ò e cọt kẹt của những dui mè trên mái như tiếng nỉ non thầm thì, của người em bạc mệnh: "Anh ơi! Hãy thương đàn con của em!"
Tôi quay ngoắt lại gọi tất cả các cháu lại cho tôi ôm từng đứa, và hỏi từng tên: Hoài Khanh 16 tuổi, đã về Sài Gòn thăm ông bà nội và đón tôi. Chí Trung 12 tuổi. Chí Tuấn 11tuổi. Chí Dũng 10 tuổi. Chí Bảo 8 tuổi. Và cháu Hồng Trang 5 tuổi, như thế gồm 6 đứa, năm trai và một gái, trừ thằng Khanh con cả, bốn đứa con trai sau đều lấy đệm là "Chí". Kết hợp với tấm hình của tôi 1959 thấy trong cuốn album của chú Lý. Tấm hình tôi mặc sơmi trắng ngắn tay, chụp ở giai đoạn trong trại học sinh di cư Pavie Lamothe Phú Thọ. Lật phía sau tấm hình nét chữ riêng biệt của em Lý còn ghi: "Đặng chí Bình. Người anh đáng kính của mình!"
Tôi không thể hiểu lời ghi chú trên của em tôi trong tình huống nào, vào giai đoạn nào. Vì ý nghĩa ấy, tôi đã lấy và in tấm hình đó ở tập I Thép Đen.
Từ tấm hình của tôi, đến lấy tên đệm "Chí" của tôi đặt cho các con của chú, đã như một dấu ấn trong lòng tôi. Trừ thằng Khanh, bác cháu đã có nhiều chuyện ở trên đường, tôi lục túi cho mỗi đứa một đồng, mua kẹo, bánh theo ý của mỗi đứa. Tôi cũng nói rõ với các cháu, tôi đi làm ba tháng nay không có gạo và cũng không tiền, tôi cũng xin lỗi các cháu, tôi xin lỗi cả thím Lý, đời các cháu lầm than nheo nhóc có phần của tôi góp vào.
Thím Lý nói một câu vẫn còn buộc túm trong lòng tôi:
- Nếu anh Lý biết anh còn sống trong tù ở ngoài Bắc, anh Lý đã ra Bắc. Nếu anh Lý ra Bắc 1976 thì anh ấy không....
Nói đến đây thím Lý nấc lên, không nói ra lời nữa. Lại chữ "nếu" cái chữ mà một văn hào người Pháp đã dùng nó một cách điển hình nhất: "Chữ "nếu"có thể đút cả thành phố Paris vào một cái chai nhỏ".
 Lúc đó đã ba giờ chiều, trời tối xầm lại rồi chuyển gió lộng, con sông Hồng Ngự cũng bị đất trời làm nó ngứa ngáy dộp hết cả người. Người nó như khúc mình con rồng giương hết cả vẩy lên. Do hoàn cảnh và điều kiện, thằng Khanh sáng mai phải lên thị trấn Hồng Ngự, nó đang làm thuê cho một ông chủ "đít mới đỏ" do nhuộm sau 30-4-1975, nó đã xin nghỉ một tuần về Sài Gòn. Tôi, sáng mai cũng phải về lại Sài Gòn trình diện với CA khu vực. Hôm nay đã "cương ẩu" với cô nàng mặt "qủa cà ghém luộc" rồi. Vậy, dù cho có mưa gió bão bùng, bằng mọi giá, hôm nay phải ra đồng gặp người em của tôi.
Tôi, thằng Khanh, Trung, ba bác cháu chạy đến một cửa hàng bách hóa mua nhang và nến. Trên đường, qua các cháu, tôi được biết tên "sát thủ" ở một xóm phía bên kia cũng, có một vợ và hai con. Tôi đã quan sát, qua những tình huống sinh hoạt, của dân trong vùng.
Tôi đã đưa giấy chấp nhận của Phường 6, cho lên Hồng Ngự, cho công an địa phương để ngủ lại đêm nay. Chính tôi luôn có một con mắt "cảnh giác", dù rằng tôi không có một chủ trương gì cả, nhưng chữ "ngờ" thì đã ai học được"
Trời có thể mưa to, hơn nữa thím Lý ở nhà với cháu Hồng Trang, nấu cơm. Tôi và tất cả năm đứa cháu trai lách lau sậy tiến về một nghĩa địa cách nhà gần hai cây số, cỏ dại mọc um tùm che khuất cả ngôi mộ, tất cả sáu bác cháu cùng dọn sạch. Một con dao quắm tôi vùng vẫy, một ý nghĩ chợt đến... Tên "du kích" thật hèn! Hạ thủ một người đang ngủ, y sống kiếp của con rùa, con thỏ lén lút không những sợ ngay cái bóng của mình mà còn sợ cả ánh sáng. Là rùa, là thỏ mà có thời vẫn áo mũ nghêng ngang, xe mã; ngược lại tướng mà hết thời, thì cũng chỉ mòn mỏi chết dần.
Mùi cỏ dại bị phát, bị nhổ hăng lên trong gió, nó nồng nồng, hăng hăng, cái mùi chất phác, mộc mạc của máu xương, tiền nhân quyện vào trong đất. Một làn chớp nháng lên xanh lè cả nghĩa địa, rồi những tiếng ùng ục.... ùng ục phía chân trời. Những đám mây đen vần vũ trên bầu trời sũng những nước, mấy đứa nhỏ lấm lét nhìn lên trời sợ mưa ở giữa cánh đồng. Tôi nói với thằng Khanh, Trung, Tuấn mấy đứa lớn:
- Các cháu hãy thắp nhang, đốt nến rồi bác cháu ta sẽ đọc một số kinh, cầu cho linh hồn bố các cháu! Bác cũng chẳng thuộc kinh nhiều, chúng ta hãy cầu nguyện giản đơn, điều quan trọng là phải có lòng thành.
Bất chợt một tiếng nổ như xé màng tang, ngay ở trên đầu, cả năm đứa đều ôm chầm lấy tôi. Các cháu nhỏ, như muốn tìm sự bảo vệ, chở che của một ông bác.
Nhìn ngôi mộ đất thấp lè tè của em Lý, tay tôi ôm và vỗ nhẹ các cháu, tôi như muốn nói: Bác của các cháu đã tài hèn sức mọn, lại không có thời, cũng đành tàn lụi dần theo vận nước, bác xin các cháu tha lỗi cho bác! Nhưng không thể thốt ra thành lời.
Để xóa đi những nỗi niềm đầy vơi yếm thế trong lòng, tôi nhìn lên mây trời xám đen đang quay lộn, nói với các cháu:
- Bác hỏi cả năm cháu! Nếu bác cháu mình đang đọc kinh cho bố các cháu, trời có mưa to, gió lớn, bác cháu mình vẫn cương quyết đọc cho xong buổi kinh, các cháu có dám không"
- Chúng cháu " dám ", không sợ trời mưa!
Mưa bắt đầu rơi, rồi như tháo cống, nước đổ xuống ầm ầm xối xả, các cháu đã được khích lệ trang bị ý chí chịu đựng. Mưa rơi, mặc mưa rơi, bác cháu chúng tôi vẫn đọc kinh đều đều, mưa tầm tã rắc đổ lên đầu chúng tôi. Từng dòng nước chảy luồn vào cơ thể, thỉnh thoảng một đứa đưa tay lên vuốt mắt. Không biết chúng vuốt nước mưa hay nước mắt, khóc thương cho người bố hẩm hiu, nằm dưới mộ một mình đơn độc, cô liêu".
Tiếng réo rột roạt của nước mưa chảy chung quanh, lẫn với tiếng mưa gió như có giọng nói em Lý ngày nào: "Anh ơi! Hãy cưu mang các con của em!"
Bụng của tôi sôi lên ọ... ẹ như muốn nói: Nút đầu tiên phải cởi là anh ra được nước ngoài, em hãy hỗ trợ anh! Một tiếng sấm gào lên ở chân trời phía đông như lời khẳng định của em Lý:
 - Lúc nào em cũng ở bên anh!
Trên đường bác cháu trở về, óc tôi vẫn vấn vít cảnh ngoài mộ chú Lý vừa qua, dù chỉ là những dòng hình dung, tưởng tượng trong tâm tưởng như có một sức thúc đẩy mãnh liệt trong lòng tôi, để thể hiện ra trong cuộc sống.
Sáu bác cháu về đến nhà, mưa vẫn còn rơi nhì nhẹt, nhìn dòng Hồng Ngự cuộn đỏ phù sa, tôi rủ cả năm cháu nhào xuống vẫy vùng, cháu Dũng và Bảo nhỏ nhất, cũng bơi lội ra trò. Hầu như những đứa nhỏ được sinh ra bên bờ sông nước, đều chẳng lạ gì lội với bơi. Từ dưới dòng nước, qua màn mưa thưa, trời lại sáng dần, tôi nhìn lên nhà em Lý, rõ ràng có hai người phụ nữ. Một người chắc là thím Lý, còn người nữa là ai" Khi bác cháu vừa lên đến cửa thì "người ấy" đã chạy ra, cầm cả hai tay tôi, nói trong nước mắt đoanh tròng:
- Cậu Bình! Chị tưởng cậu đã chết rồi!
Tôi nghẹn ngào ôm chầm lấy chị, không nói ra lời, chị là chị Công, con của bác Hạnh là anh ruột của thầy tôi. Bác của tôi có ba người con, chị Công là cả, chị cùng tuổi với tôi, thời 1945 chị xuống phố ở với bố mẹ tôi. Tháng ba Ất Dậu 1945, nạn đói khốc liệt của quê hương đã làm chết hơn hai triệu người, cả gia đình bác Hạnh ở trên quê đã góp phần bốn người, chị Công ở dưới phố với bố mẹ tôi nên còn sống và chúng tôi đã gặp nhau hôm nay.
Tôi nhớ trước khi tôi ra Bắc chị đã có chồng, chị không có con, nhưng không rõ người chồng của chị ngày ấy là anh Ky bây giờ ra sao, tôi cũng lơ mơ không hỏi được để biết. Chỉ vì giai đoạn từ trại tù về miền Nam này tôi bị: Công An Thành, CA Quận, CA Phường, CA khu phố và phòng Quản lý những người học tập cải tạo được tha về, ràng bố, ép đè vây hãm mê tơi. Không gạo, không tiền mà vẫn phải đi làm hàng ngày.
Một điều khi còn trong tù tôi thường thấp thỏm, nếu được về Nam, cần biết rõ: Sau khi tôi ra Bắc bị mất tích, bố mẹ tôi có được đền bù phần nào, do chính phủ VNCH hay không" Cho tới lúc tôi đang ngồi viết những dòng này, tôi cũng không hề có một manh mối nào giải đáp rõ ràng cho câu hỏi trên của tôi. Tôi muốn biết để cho niềm ẩn ức ở trong lòng đậy lại, hay xóa đi, chứ chuyện đó đã "over" rồi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.