Hôm nay,  

Ba Trăm Năm Nghề Biển Bình Thuận Nay Về Đâu ?

29/08/200900:00:00(Xem: 6230)
BA TRĂM NĂM NGHỀ BIỂN BÌNH THUẬN NAY VỀ ĐÂU "
MƯỜNG GIANG
Sinh trưởng và có mặt khắp các nẻo đường Bình Thuận từ mấy chục năm qua, nên tụ nhiên thấy náo nức, khi đối diện với quê hương mình. Hạ Uy Di cũng là vùng biển mặn, khiến cho người xóm biển cứ bâng quơ tìm về đất trời quê củ. Rồi cũng bắt đầu từ đó, qua nổi vui của một kẻ tha hương, bổng cảm thấy thật ấm áp với mùi biển muối mặn mòi, làm như mình có nợ với Phan Thiết, nên cứ nhớ, viết và lâng lâng đi lạc trong mảnh vườn ấu thơ, kỷ niệm của một thời.
Trong mùi hương của cảm nhận, người tha phương lại dừng chân trước khoảnh khắc của thời gian, vào những lúc bình minh, ban trưa, hoàng hôn và đêm tối, rồi theo âm vang của sóng biển, những cánh chim lưng trời hát vang khi bay về núi, mà nhớ. Quê tôi là thế đó, nên yêu tha thiết, từ cái mùi nước mắm mằn mặn thơm thơm, cho tới cái âm thanh bất tận của sóng biển, hình bóng thân quen của những tàu thuyền đánh cá, con đò ngang lắt lẻo trên sông, các phiên chợ tỉnh hay quê đều đầy ắp tiếng người, hàng dừa xanh gió lộng, đồi cát trắng im lìm, tiếng chào hỏi trên đường, vó câu của những xe ngựa và nổi ngậm ngùi của bóng đèn chài trong màn sương khói, bảng lảng lúc ra khơi.
Bình Thuận muôn đời là vậy, chẳng khác gì loài Dông hiền lành tội nghiệp, cứ phải ẩn mình trong cát, dưới những tán rừng ô rô mà nhẫn nhục để sống. Bởi vậy về Bình Thuận, phải đi vào những ngõ ngách lẩn khuất của các xóm khu bình dân, lao động, những xóm chài, động giá, ngõ hẹp quanh co của khu vực nhà lều nước mắm thênh thang giàu sang của Đức Thắng, Lac Đạo, mới biết được thế nào là miếng ăn của người nghèo, đã được đổi bằng mồ hôi trên đòn gánh hay cánh tay khẳng khiu của người.
 Kể chuyện Bình Thuận, để nhớ người nghèo sống nơi bị đời gán cho ‘ quê hương miền biển mặn, hay chốn rừng tiền biển bạc gì gì đó’, thật ra cũng chỉ dành cho ai, chứ hầu hết dân nghèo lao động chỉ tự mình ngoi lên và tồn tại bằng chính máu và nước mắt của mình. Cho nên không thể trách họ là đã theo phe này phe nọ, chống đối hoặc hoan hô, vì thực tế người dân chỉ là kẻ tha nhân bên vệ đường thời gian mà thôi. Chính quyền thời nào cũng vậy, chỉ hoàn toàn đứng chung phe với người giàu. Cho nên đừng trách thời Pháp thuộc sao có ít người Bình Thuận thành danh " bởi vì cơm không đủ ăn thì chớ, vậy tiền đâu mà học tại Sài Gòn, Pháp.. để thành tiến sĩ, giáo sư, kỹ sư, bác sỹ. Phải cám ơn Việt Cộng vào, để có phong trào vượt biển và nhờ đó, Bình Thuận mới có đầy trí thức, khoa bảng như hôm nay đi đâu cũng chen chân không lọt, vì ai cũng nói mình là khoa bảng hết.
Nhớ về Bình Thuận, điều làm cho ta sung sướng nhất là lúc được sống hồn nhiên trong thế giới của người nghèo, không lọc lừa bưng bợ lại chẳng cần đóng kịch trí thức hay trưởng giả, bởi người nghèo Bình Thuận ăn ngay nói thật, không cần lớp hào nhoáng bên ngoài. Ba trăm năm qua, nghề biển vẫn là yếu tố kinh tế tuyệt đối của tỉnh Bình Thuận, mặc dù luôn luôn gặp phải những thăng trầm, thách thức và lao đao nghề biển lao đao thuế cũng như sự chết chóc thường trực của ngư dân trên biển, khi hành nghề.
Theo tin tức thì mấy năm nay, nghề biển Bình Thuận quá xuống dốc nhất là tại Hàm Tân và cửa La Gi lại thường bị nghẽn do cát bồi. Thêm vào đó là thời tiết thất thường do Elmino, gây ra nhiều cơn bão biển nhiệt đới. Biển đói kéo theo mọi ngành nghề cùng đói, kể cả sự mua bán. Dân biển quen tính tự tin nên không bao giờ tính toán, vay nợ ngập đầu và khi không trả nổi thì sạt nghiệp. Nhiều người muốn làm giàu, nên đóng tàu to máy lớn nhưng chỉ có hai tay trắng phải vay ngân hàng, đầu đậu, chủ dầu, chủ đá và hàm hộ. Do đó con cá lên bờ đã chia năm xẻ bảy, người chủ không còn là bao và khi mất mùa thì bó tay.
Còn nửa, phải nộp đủ thuế biển tàu thuyền mới được ra khơi, cho nên nhiều ngư dân rất sợ biển nhưng biết chuyển nghề gì "Tóm lại ngư dân Bình Thuận hiện nay trong thiên đàng xã nghĩa, nộp thuế cho đảng rất cao, một điều mà trước tháng 5-1975 không hề có. Thôi thì thuế là thuế : nào là Thuế Nghề Cá (TNC), Thuế Buôn Chuyên Hải Sản, Bảo Hiểm Thuyền Tàu, Lệ Phí Giao Thông và Thuế Phạt Nộp Chậm.. đó là chưa nói tới tiền lót tay cho hàng hàng cán bộ nhà nước có liên quan tới công việc làm ăn của ngư dân.
Nghề biển bao đời là các bực thang và thảm trải để các chủ sản xuất nước mắm tại Bình Thuận làm giàu. Nhưng rồi vốn liếng và cơ sở xây dựng, tích lũy bao đời tại Đức Thắng, Lạc Đạo, Bình Hưng, Hưng Long, Đức Nghĩa.. đã bi Việt Cộng chiếm đoạt sạch láng ngay khi ‘ cách mạng ‘ về tiếp thu ‘ giải phóng tỉnh nhà sau 30-4-1975, mặc dù hầu hết mấy ông nhà giàu làm nước mắm Bình Thuận, đi đêm và đóng thuế cho Việt Minh, Việt Cộng suốt cuộc chiến 1930-1975.
 Làm nước mắm là nghề không bao giờ bị lỗ lã vì làm ít lời ít, càng làm nhiều thì càng giàu nhiều, đó là một chân lý. Thế nhưng bây giờ thì nó cũng lao đao như nghề biển vì thuế. Biển Bình Thuận giờ cũng ít cá hơn trước nhất là cá nục để làm nước mắm, nên phải dùng nhiều loại cá, vì vậy nước mắm không được tốt hay ngon như trước.
 Để có được nước mắm, phải cần một thời gian nhất định cho cá chín như cá nục (9 tháng), cá cơm (7 tháng). Ngày xưa hàm hộ Bình Thuận tiền vàng biển bạc nên chỉ ngồi chờ mắm chin để bán. Ngày nay phần lớn chủ làm nước mắm, ít vốn phải vay nợ ngân hàng hay tư nhân. Đến khi cá thành nước mắm để bán thì nợ cũng chồng chất. Cứ thế một vòng quay chậm rãi cứ tới nào là chôn vốn, phí tổn và thuế. Tất cả phải qua thủ tục đầu tiên cho cán bộ. Tóm lại do lắm chuyện buồn mà ngày nay nghề làm nước mắm cá biển truyền thống Bình Thuận, đang dần bị thay thế bằng nghề chế biến cá cơm, ruốc tươi hấp cách thủy sấy khô đóng hộp xuất cảng. Nhưng Bình Thuận là xứ biển, cá dư hàng ngày không tiêu thụ hết chẳng làm nước mắm thì làm gì "
+ Từ Ghe Bầu và Lưới Rùng ngày xưa, tới Nghề Biển Hôm Nay :
‘Gỏi nào ngon bằng gỏi cá mai"
trai nào lịch sự bằng trai lưới rùng.‘
 Câu hát ví ngày xưa của nam nữ thanh niên Bình Thuận ven các làng biển, giờ chỉ còn là âm vọng của một thời xa cũ, dù gỏi cá mai cũng vẫn là món nhậu hàng đầu tại bản địa, còn lưới rùng thì họa hoằn mới thấy tại bờ biển Thương Chánh, Kim Hải.. vì trai lưới rùng lịch sự ngày xưa đã rủ nhau ra trùng khơi muôn dặm, trên những tàu thuyền hiện đại.
Ghe bầu được đóng bằng gỗ chạy buồm đệm đan bằng lá buông, là phương tiện giao thông vận tải đường biển phổ quát tại Bình Thuận-Phan Thiết suốt 200 năm, từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX mới bị thay thế. Do có trọng tải rất lớn dù không chạy được mau, nên ghe bầu dùng chở nước mắm (10.000-20.000 tĩn làm bằng đất nung sành có thể tích 5-10-15 lít), gạo thóc, sản vật và tiền thuế đúc bằng đồng nộp cho triều đình nhà Nguyễn tận kinh đô Huế. Ban đầu hải cảng chính của tỉnh nhà là Phú Hài, sau dời về Phan Thiết.
Ngày xưa chưa có phương tiện dồi dào để ra khơi, hơn nửa biển Bình Thuận cá rất nhiều thường vào tận bờ, vì vậy mà nghề lưới rùng phát sinh và tồn tại rất lâu ở Phan Thiết. Lưới rùng có độ dài dây kéo tới 1,5 km, còn được gọi là lưới quát để đánh xa bờ. Lưới kéo từ 6 giờ sáng tới 2 giờ chiều mơí thu hoạch được cá, nếu trúng gáo cũng có thu hoạch lớn, thường là các loại cá tạp sống ven bờ như lò có, đỏ dạ, nhiều khi có cả tôm, ốc. Mùa rùng thường hoạt động trong mùa bấc từ tháng 10 -3 âm lịch.
Tại Phan Thiết mấy năm gần đây số lượng tàu thuyền đánh cá đã tăng lên 2205 chiếc/113.947 CV, trong đó có 238 chiếc /43.694 CV chuyên đánh cá xa bờ. Nghề biển chính cũng vẫn là giả cào khơi, nghề chà cá nục, lưới rút chì khơi, câu mực, cá thu, cá mập và nghề lặn nghêu, điệp, dòm..
Trước năm 1975, ngư dân vùng biển Bình Thuận vào tới Vũng Tàu thường dùng loại thuyền đánh cá CI-TII, có chiều dài từ 15-18m, rộng 4-4,5m, trọng tải 25-55 tấn, chạy bằng máy dầu cặn và kèm theo 1 cánh buồm. Thuyền chủ yếu đánh cá , chở hàng hóa và hành khách từ Sài Gòn-Vũng Tàu-Phan Thiết-Phan Rí những năm quốc lộ 1 bị nghẽn vì VC đắp mô, chôn mìn và chặn bắt xe đò. Thuyền CI-TII có xuất xứ từ miền nam Trung Hoa và đảo Hải Nam, du nhập vào Bắc Việt và năm 1954 theo chân người Nùng Móng Cáy, Quảng Yên vào Bình Thuận.
Các loại thuyền kiểu C4-T1-A và C4-T1-B hay là ghe Thái Lan, loại A dài 9-15m, trọng tải 11 tấn, loại B dài từ 17-25m, trọng tải 60 tấn. Loại thuyền này được các ngư dân miền nam VN sử dụng từ đầu thập niên 60, theo đồ án của Nha Hải Ngư Nghiệp VNCH vẽ kiểu và hướng dẩn đóng. Thuyền dùng động cơ chạy dầu mạnh từ 20-60 mã lực, thông dụng nghề giả cào cặp đôi, lưới bén..
Phan Thiết là thành phố biển, có kỹ nghệ sản xuất nước mắm ngon thơm và quy mô nhất nước từ lâu đời. Cái mùi hăng hắc khắp nơi, thường là sau tháng chin âm lịch tới Tết Nguyên Đán, chính là những bao xác mắm dùng làm phân bón cây xanh, rất được thông dụng tại Đà Lạt. Nước mắm Phan Thiết-Phan Rí-Mũi Né ngon thơm nổi tiếng vì biển Bình Thuận có đủ loại cá làm mắm như cá nục, cá cơm, cá mòi, mực.. Ngoài ra khắp Bình Thuận còn sản xuất được loại muối rất ngon tại Vĩnh Hảo, Duồng, Phú Hài, Phan Thiết.. không ở đâu sánh bằng.
Từ xưa người Bình Thuận đã biết sử dụng các loại lưới để đánh cá, từ lưới đan bằng bông vải, sợi gai cồng kềnh nặng nề thuở trước cho tới lươi nylon nhẹ nhàng tiện dụng hôm nay. Về phương pháp đánh cá, người Bình Thuận-Phan Thiết thường dùng cách kéo lưới chạy như giả, thụ động có lưới quay, lưới rùng, mành chà, rớ hoặc cố định như lưới quay, lưới chuồn, lưới đăng. Nghề câu thường là câu kiều, câu chạy và câu ống. Cuối cùng là nghề nò bẩy.
+ Phan Thiết Ngày Mùa :
Buổi trước tại Phan Thiết không có gì vui cho bằng những ngày mùa Cá Mòi hay Cá Nục. Chỉ riêng trên sông Cà Ty từ Cồn Cỏ tới cửa Thương Chánh, ngày đêm đã có trên vài ngàn ghe thuyền lớn nhỏ xuôi ngược với hai cột buồm cao nghệu , trên có treo cờ hiệu đủ màu sắc, để đầu nậu dễ nhận diện.
Vui nhất là khi thuyền về bến, dòng sông bị đặc nghẹt bởi đủ loại ghe thuyền, các xuồng nhỏ chở cá, xuồng đổ nuóc ngọt và đò ngang. Ngày mùa tại Phan Thiết sôi động nhất vẫn là khu vực Bến cá Cồn Chà Đức Thắng, trong phạm vi các con đuòng Trưng Trắc, Ngư Ông, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo. Bên Bình Hưng, Hưng Long cũng nhộn nhịp khi ghe về nhưng không sánh nổi với Đức Thắng.
Tại đây đêm lẫn ngày luôn tấp nập người, xe ngựa, xe ba bánh và các loại xe chở cá muối nước đá hay cá tươi đi khắp trong và ngoài tỉnh. Riêng người thì gánh cá từ ghe thuyền tới lều nước mắm. Công việc liên tục từ trưa cho tới hừng sáng trong mùa cá mòi hay cá nục. Chỉ khi nào các ghe tiếp tục ra khơi, người gánh cá mới trở về nhà và lúc này là thời gian của những người buôn cá hấp, cá kho vội vã lên ga cho kịp chuyến tàu lửa Phan Thiết-Sài Gòn đêm. Khi bình minh ló dạng, thì cá mòi, cá nục, ghẹ, ốc Phan Thiết cũng theo các chuyến xe có mặt khắp Ban Mê Thuột, Đà Lạt, Long Khánh, Biên Hòa, Sài Gòn.
- NHỮNG LOẠI CÁ CHÍNH TẠI BIỂN BÌNH THUẬN :
Ngư trường Bình Thuận nhờ tiếp xúc với Biển Đông và hải phận chạy tới quần đảo Trường Sa ở phía nam, nên rất rộng và có nhiều loại cá, tôm và loài nhuyễn thế quý hiếm mà các địa phương khác không có. Cá quý ở biển Bình Thuận có gần 50 loại và phân thành hai nhóm: cá ăn nổi và cá ăn chìm.
Nói chung những loại cá có giá trị kinh tế cao hiện nay như CÁ CƠM (An chovy), mình nhỏ, mãnh mai, có màu trắng hay bạc. Ngư dân Phan Thiết đánh cá cơm bằng lưới quay, lưới bén, mành và nò. Cá cơm ngoài làm nước mắm, hiện được chế biến hấp, phơi khô và đóng thành gói hay hộp xuất cảng sang Trung Cộng. Vựa cá cơm của Võ thị Thu Hương ở xã Thanh Hải, Phan Thiết được coi là bề thế nhất trong 23 cơ sở tại Bình Thuận hiện nay. CÁ THU (Thurnus Thynnus) là loại cá được khai thác có kế hoạch nhất hiện nay. Thịt cá thu ăn ngon và bán có giá cao. Trong ngư trường Bình Thuận có nhiều loại Cá Thu như YELLOWFIN TUNA sống thành đàn, di chuyển theo mùa từ Trường Sa lên tới Phú Quý. SKIPJACK TUNA, BIGEYE TUNA, MACKERELS sống rất nhiều ở Biển Bình Thuận. Ngoài ra còn có CÁ THU ỐNG (SPANISH MACKEREL là loại cá lớn từ 60-120cm, có thân hình như điếu xì gà, có một đường thẳng màu xanh đậm chia thân cá làm hai màu, phía trên màu sẫm đậm còn phía dưới màu trắng bạc. Cá này được ngư dân Bình Thuận gọi là CÁ THU NỤC và bắt bằng lưới và nò. Thịt cá thu thơm ngon nên dù kho, chiên, nấu canh món nào cũng tuyệt.
CÁ BẠC MÁ (Chub Mackerel), loại cá nhỏ, hình bầu dục, dài từ 15-25 cm, có một đường màu vàng chia thân cá làm hai màu rõ rệt, màu đen ở trên và màu bạc ở dưới bụng. Mõm cá bạc má hình nón và lưng thon dài về phía đuôi, mắt tròn lớn. Cá bạc má thơm thịt, ngư dân đánh bằng lưới quay, lưới bén thả trôi hay nò. CÁ CHUỒN (Flying Fish) rất dễ nhận vì nó có vi bụng rộng và lớn, nhờ đó sử dụng như cánh bay lướt trên mặt nước hàng chục mét. Cá có thân hình dài từ 10-15 cm, đánh bắt bằng lưới bén, rớ và nò.
 CÁ NHÁM (Shark) còn gọi là cá mập thân hình lớn màu sẩm, mình nhẫn, mõm nhọn, hàm trên có hai răng nhọn bén như lưỡi cưa. Vì vi lưng thứ hai và vi bụng hậu môn nằm đối diện nhau nên dễ nhận ra loại cá này. Cá nhám dài từ 40-50 cm tới 3-4m tùy theo loại cá Nhám Xà, Nhám Cài hay Nhám Bung. Ngư phủ đánh cá này bằng cách câu bủa, nò hay dùng lưới bén. Cá Nhám đẻ con nằm sẵn trong bụng, ngư dân gọi là Cá Em dùng nấu cháo hay trộn gỏi ăn rất ngon. Người ta bắt cá Nhám để lấy VI, chế biến thành món ăn sang trọng đắt tiền tại các tửu lầu. Da cá Nhám cạo sạch chế món nhậu, thịt phơi khô cũng là những món ăn quen thuộc của Phan Thiết.
 CÁ RỰA (Wolf Herring) dài từ 40-50 cm, có đầu ngắn và hàm nhô ra, cá rựa không có vảy, một vạch màu xanh đậm chia thân cá làm hai màu, có một hàng vi cao 1cm chạy suốt sóng lưng. Ngư dân dùng lưới bén hay nò để đánh. CÁ SỌC MƯỚP (Horse Mackerel) có thân dẹt hình bầu dục, đầu cá như được ép cứng lại. Cá sọc mướp có mõm ngắn, hàm mắt nhô ra và mắt lồi. Trên thân cá có những sọc nhỏ chạy dọc , cá dài trung bình 20 cm, phần trên màu xanh, phía dưới màu bạc xám. Ngư dân bắt cá này bằng lưới thả lưng chừng và nò. CÁ TRÍCH (Sardine) thân dài, mảnh mai và dẹt, dài từ 14-18m, lưng cá màu xanh hơi sẩm, đánh bắt bằng lưới quay, bén hay nò.
CÁ NGỪ (Mackerel Tuna/Oceanic Tuna) rất dễ nhận dạng vì thân chắc bóng láng, trông giống như thủy lôi, dài từ 30-50 cm, phần trên lưng màu sậm, phía dưới màu trắng bạc, mắt lồi. Cá ngừ thịt ngon, nhất là kho ăn với bún tươi. Đánh bắt cá ngừ bằng lưới bén đánh bao, thả trôi, lưới đặt và nò. CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG là món ăn trân quý của người Nhật hay Tây Phương hiện nay gọi là Sashumi nhưng đối với các ngư dân các tỉnh miền Trung từ Quảng Nam vào tới Bình Thuận, lại là loại cá vô dụng, lở câu được thì cũng đem bỏ vì thịt không ai ăn kể cả gia súc. Gọi là Cá Ngừ Đại Dương vì cá này chỉ sống ngoài hải phận cách bờ chừng 200 km, chuyên ăn mồi sống thuộc họ Cá Ngừ, có trọng lượng trung bình từ 30-120 kg. Cá ngừ đại dương thích ăn cá chuồn có nhiều tại vùng biển từ Quảng Nam vào tới Bình Thuận, nên cũng có nhiều tại vùng này. Từ năm 1993, Cá Ngừ Đại Dương lên ngôi vua tại VN, khi các công ty Nhật muốn liên doanh với ngư dân tại miền Trung, trong đó có Bình Thuận để cung cấp cá ngừ cho họ. Cá có giá cao nhưng để đạt được tiêu chuẩn, ngư dân phải tuân thủ phương pháp bảo quản rất gay gắt và đứng đắn , vì giá cả lên xuống tuỳ thuộc vào con cá có được chăm sóc, đúng hay sai và tuỳ thuộc vào các ông chủ lớn tại Đông Kinh. Tóm lại trong nghề biển từ xưa tới nay, chỉ có nghề câu cá ngừ đại dương là khó khăn và nguy hiểm nhất, từ việc câu mồi cho tới bủa câu, bắt cá từ biển lên và trên hết là làm sao cho bà hoàng hậu đừng bị tray da tróc vảy.

CÁ MÒI : Có rất nhiều tại Bình Thuận nhưng tự dưng mất hẳn từ năm 1960, ngày nay cá mòi có trở lại với số lượng ít ỏi không đáng kể. Cá mòi có hai loại là Cá Ranh gồm cá mòi mới lớn và cá xanh bầu. Cá Mòi Dầu gồm Mòi Trũng, Trũng Cờ, Trũng Lá Mít và Trũng Đất. Trước năm 1954 hằng năm Bình Thuận thu hoạch từ 17000-20.000 tấn cá. Thịt cá mòi thơm ngon, béo có thể hấp hay kho. Dầu cá mòi gồm hai loại dầu mặn và ngọt, dùng làm dầu ăn, thắp đèn, thay mỡ bò làm trơn các bộ phận xe trâu hay bò, dược liệu, thuộc da và pha sơn. Một tấn cá mòi lấy được 32 kg dầu , mỗi năm thu từ 546-640 tấn dầu cá mòi. Trước năm 1960, mành mòi Bình Thuận hoạt động quanh năm theo chu kỳ sinh đẻ của cá mòi nhưng mùa chính vẫn từ tháng 7-10 âm lịch là khi cá béo, đủ dầu và xuất hiện nhiều tại vùng biển Phan Thiết-Phan Rí-Hàm Tân. Cá mòi ngoài là món ăn chính của hầu hết người VN, còn được muối mắm. Nước mắm cá mòi thơm ngon hơn cá nục hay cá tạp. Về nguyên nhân tại sao Bình Thuận từ năm 1960 về sau mất hẳn cá mòi, đã được giải thích là do tiếng động của máy tàu và cũng do các ghe giả cào của người Nùng tại sông Mao-Phan Rí làm mất môi sinh và thức ăn của cá, cho nên đàn cá phải di cư tới một vùng biển khác. Do trên, trong khi hầu hết các biển từ Long Hương vào tới Hàm Tân mất hẳn cá mòi, thì tại vùng biển cấm Hòn Rơm, Hòa Thắng, Bình Thiện vẫn còn có cá mòi xuất hiện, vì đây là vùng oanh kích tự do trong thời kỳ chiến tranh 1955-1975, nên không tàu thuyền đánh cá lai vãng, rất yên tịnh.
CÁ NỤC : có nhiều loại tại vùng biển Bình Thuận như nục suông, bạc má nhưng nhiều nhất vẫn là cá NỤC SỒ (Decapterus Maruadsi), thit thơm ngon dù nấu nướng theo kiểu nào như kho, nướng, hấp, chiên hay nấu canh. Cá nục sống trong tầng nước cạn, trong lộng cũng như ngoài khơi, dọc theo miền biển Bình Thuận là nơi có nhiều sinh vật nổi (plankton) nhu rong Copepoda, Ostracoda và loại tôm đất nhỏ Macruda, là món ăn của cá nục các loại. Từ xưa đến nay, ngư dân Bình Thuận đánh cá nục bằng lối đặt chà làm nơi gom cá tại chỗ để vây bắt bằng lưới. Cây chà làm bằng các tàu lá dừa, bó quanh một cây tre lớn , một đầu cột đá nặng cho chìm dưới nước, đầu kia thả nổi đứng trên mắt biển, có cắm cờ hiệu của chủ chà. Mỗi năm Phan Thiết có 3 mùa cá nục, tháng 2-5 âm lịch là mùa sớm, từ tháng 5-9 là mùa chính và từ tháng 11 về sau là mùa muộn. Ngoài các loại cá trên, còn có cá Sòng (Maquereau). Ngư dân đánh cá nục bằng mành lưới quay và lưới bén. Nước mắm cá nục thơm ngon nổi tiếng khắp nước.
Ngoài các loại cá trên, còn có các loại cá đi ăn chìm như CÁ CHIM (Silver Batfish) đánh bằng giả và nò, CACHÉT (Tassel Fish) dùng lưới giả, nò, lưới đặt cà câu giăng. CÁ GỘC ( Threadfin), CÁ MỐI (Lizard fish), CÁ THIỀU (Catfish), CÁ ĐỔNG (Threadfin Bream), CÁ BÀN XA (Sickle Fish), CÁ ĐỎ GIẠ (Grouper), CÁ HỐ ( Ribbon Fish), CÁ ĐUỐI (Skate) được ngư dân đánh bằng lưới, câu hay nò.
-HẢI SẢN PHỤ :
 Biển Bình Thuận ngoài Cá còn nhiều loại hải sản phu gồmỳ các loại Ốc biển như:
ỐC HƯƠNG (BalylomaAreolata Lamarck) là món ăn quý của Bình Thuận, vì thịt thơm ngon, bổ dưỡng. Ngoài ra võ ốc hương cũng như nhiều loại ốc biển khác , đều có hình dáng và màu sắc rất đẹp mắt, là mặt hàng có giá trị trong kỹ nghệ trang trí hiện nay. Ốc Hương có nhiều tại Bình Thuận, tuy nhiên nhiều nhất vẫn tại Phan Thiết và Xóm Ốc Đức Long nổi tiếng ba thế kỷ qua, là địa phương chuyên nghiệp về nghề rập ốc. Ốc Hương thường sống ở độ sâu từ 5-20m, trong vùng có cát bùn và xa bờ chừng vài cây số. Thức ăn chính của ốc hương là bã hữu cơ của các loài động vật. Thường thì ốc hương sống rải rác khắp nơi, nhưng khi đánh hơi có mồi thì hợp đàn day đặc để rúc rỉa mồi. Nắm được yếu điểm này, người ta dùng bẩy rập để bắt ốc. Ngày nay bẩy rập ốc được biến cải theo kiểu Thái Lan, có ba tầng, đường kính rộng khoảng 25 cm, khung bằng sắr, bên ngoài bọc lưới thép. Giàn rập gồm 100 cái, móc chung trên một đường lớn, có khoảng cách mỗi cái là 1m. Mồi câu ốc thích hợp nhất là cá chai đem muối, rồi để cho cá mùi từ 12-24 giờ, xong đem treo vào dây căng giữa rập. Ốc hương có nhiều tại Bình Thạnh (Tuy Phong), Hòa Thắng (Bắc Bình), Tân Thành (Hàm Thuận Nam) và Tân Thiện, Tân Thắng (Hàm Tân).. Ốc Hương hiện nay là món ăn vương giả, nếu không có mặt tại các khách sạn, quán nhậu thì cũng vào bao bì xuất cảng, nên người bản địa muốn ăn cũng không phải là chuyện dễ như trước tháng 4-1975.
ỐC ĐẢN (Limacon) là loài nhuyễn thể có vỏ dày và cứng bọc ngoài, nặng tối đa 200 g bằng trái bưởi nhỏ. Sống không xa bờ nhưng ở sâu dưới đáy nước từ 8-10 m, chủ yếu ăn cá con và bọt biển. Bắt ốc đản bằng giả cào hoặc lặn bắt bằng tay. Thịt ốc đản ngon và có thể sống trên cạn sau 24 giờ và ngay khi nấu chin, vẫn còn nghe nhịp thở của ốc. Người ta chế biến thịt ốc đản đủ loại từ luộc, làm gỏi cuốn bánh tráng, chắm mắm nêm ăn rất khoái khẩu. Võ ốc đản dùng làm nhạc khí (Buccine), đèn chụp (Abat-Jour).. Ngoài ra còn dùng để hầm vôi và nhiều công dụng khác. Vỏ ốc đản còn được dùng làm bẩy rập để bắt loại Mực Dái.
ỐC BÀO NGƯ (Abalone) còn được gọi là Cửu Khổng, vì trên lỗ ốc có 9 lỗ bài tiết nhỏ. Thịt ốc bào ngư nổi tiếng thơm ngon và là món ăn sang trọng, đắt tiền. Bào ngư còn là một vị thuốc để chửa các loại bệnh về mắt như quáng gà, thông manh..
ĐỈA BIỂN (Sea Cucumber) còn gọi là Hải Sâm hay con Đồn Độp, là loài nhuyễn thể, sống nhiều trong biển Bình Thuận. Khi bị tấn công, dĩa biển tiết ra một chất độc màu trắng để chống lại, giống như túi mực. Hải sâm rất được người Tàu ưa thích. Tại Phan Thiết, các tửu lầu đều có món gỏi Đồn Độp, lẩu thập cẩm hay đồn độp hầm với giò heo. Ngoài ra vùng biển Bình Thuận còn có nhiều loại Ruà Biển, Đồi Mồi và Vít, thường hay lên trên cạn đẻ trứng, nên bị ngư phủ bắt dễ dàng.
RONG BIỂN : là loại thực vật cao, sống ngâm mình dưới nước, một thứ nguyên liệu dùng để chế biến Thạch Đông hay Sương Sa. Biển Bình Thuận có nhiều loại Rong như Đông Sương, Cỏ Ống, Chân Vịt, Rong Câu, Rau Sa, Rau Sói.. Hàng năm, Đông Sương có từ tháng 8-10 âm lịch ở Bắc Bình, Các loại rong Cỏ Ống, Chân Vịt, Rau Câu .. xuất hiện từ tháng 7-2 âm lịch tại biển Vĩnh Hòa, Chí Công, Mũi Né, Phan Thiết. Còn Rau Sa, Rau Lá Mơ có nhiều ở quanh biển Phú Quý. Ngư dân lấy rong bằng cách nhổ, cào hay dùng dao để cậy các loại rong mọc chặt ở kẹt đá ngầm.
CUA HUỲNH ĐẾ, GHẸ : Ghe cùng giống với cua biển (Crabe de Mer), sống chủ yếu nhờ vào mồi từ xác mục rã của loài hào hến. Hàng năm từ tháng 3-4 âm lịch, là thời kỳ trứng nở ra ghẹ con nằm dưới yếm ghẹ cái. Ghẹ con khi rời mẹ đều vào sống trong vùng lộng nước êm, tới khi trưởng thành mới ra khơi. Mùa ghe tại Bình Thuận thường từ tháng 10-2 âm lịch, các Xóm Câu-Xóm Ghẹ thuộc Lạc Đạo và Đức Long, Phan Thiết là địa phương chuyên nghiệp về nghề bắt ghẹ từ lâu đời. Lưới ghẹ ngày nay bằng cước nylon 30 và thời gian hành nghề phải mất 10 giờ một lần, mới có kết quả. Ghẹ trống màu xanh nhiều thịt, ghẹ mái ít thịt hơn nên giá rẽ, Ghẹ Mặt Trăng màu xanh sậm lưng có ba chấm tròn, Ghẹ Đĩa màu vàng mang nhiều chấm trắng, thường mắt lưới giả, nên còn gọi là Ghẹ Giả. Ghẹ được chế biến thành nhiều món ăn ngon như luộc chấm muối ớt, Ghẹ Um, Ghẹ Miến nấu bún.. món nào cũng ngon lành.
 CUA HUỲNH ĐẾ thuộc loại giáp xác, có nhiều tại Bình Thuận, cái tên Huỳnh Đế có lẽ do khi luộc chin, cua có màu vàng tươi, giống như áo bào của vua chúa. Cua Huỳnh Đế to bằng nấm tay, nhìn tưởng là tôm Hùm thu ngắn, dài chừng 1,5 dm, vỏ sần sùi, tương cận với loài cua đá hơn là cua biển. Mùa cua Huỳnh Đế nhiều nhất từ tháng 2-4 âm lịch, thịt ngon bổ vì có nhiều protein và acid amin. Giống như ghẹ, cua huỳnh đế được chế biến từ món luộc, um tới canh và dù bị đồn là độc nhưng hiện nay lại là đặc sản của xã nghĩa.
NGHỀ RÊ TÔM BA LỚP : Hiện nay các ghe giả đơn hoạt động trong vùng biển sâu dưới 20 m tại Bình Thuận, thường bị cấm hành nghề nhiều tháng trong năm. Do trên ngư dân đã chuyển sang nghề Rê Tôm Ba Lớp hay là Lưới Ba Màn, chuyên bắt các loại Tôm như Tôm Sú Bố Mẹ, cỡ 0,1 kg/1 con, riêng con cái thường có buồng trứng chin, rất được các trại nuôi tôm giống mua với giá cao. Nghề này hiện đang thịnh hành tại Tiến Thành, Mũi Né, Tân Hải, Tân Thắng.. hoạt động quanh năm ở vùng biển sâu 10m, lưới và tàu thả trôi theo dòng nước, nên ít tốn nhiên liệu và hư hao máy tàu.
TÔM HÙM VÀ TÔM RỒNG : là loài tôm biển lớn, có tuổi thọ rất cao, có thể sống từ 50-100 năm, có con nặng tới 19 kg nhưng thường tghì trung bình chừng vài ký. Biển Bình Thuận có nhiều tôm hùm và tôm rồng, thu hoạch mỗi năm trên 200 tấn. Có nhiều loại tôm hùm và tôm rồng trên thế giới nhưng thông thường có hai nhóm chính là Tôm Hùm (Homarus) và Tôm Rồng (Panulirus). Tôm Hùm có đôi càng to và có nhiều ở vùng biển bắc, còn Tôm Rồng thì không có càng to và sống trong vùng biển nóng như biển Bình Thuận. Tuy vậy cả hai loại tôm sống ẩn nấp trong các hốc đá ban ngày và săn mồi về đêm, sống tại cac vùng biển có nhiều rạn đá, nước trong và ăn đủ loại nhiều đói tàn sát cả đồng loại. Ngư dân Bình Thuận khai thác tôm bằng nghề lặn, nghề rê cố định, rê ba lớp, rập bẩy, thường mùa chính vào tháng 2-6 và 10-12 âm lịch.
LẶN MÒ SÒ, KHÔNG SỢ CHẾT : Từ năm 1999 tới nay, vùng biển Bình Thuận có nghề MÒ SÒ mà địa phương gọi là MÒ NGHÊU LỤA. Bình Thuận có nhiều Sò Lông, Sò Điệp, Nghêu Lụa, Dòm.. với 500 thuyền và hàng ngàn thợ lặn hành nghề hàng ngày. Đa số những người làm nghề lặn cho chủ ghe, phần lớn nghèo, không có nghề khác, vì vậy hết mùa lặn lại làm bờ như phụ hồ, đốt than hay làm ruộng. Đây là một nghề nguy hiểm, như báo Thời Đời-Giáo Dục của VC mô tả, sinh mạng của người thợ lặn giao cho cái máy nén khí, nếu trục trặc thì xong mạng, vì tắt nghẽn nguồn cung cấp ôxy, người thợ lặn vì trồi mau lên mặt nước, khiến cho lượng Nitro tràn vào máu, làm tê liệt hệ thần kinh não tủy. Vả lại đây là nghề đem máu đổi cơm nuơi miệng, nên chủ và thợ không làm giao kèo trên giấy tờ, nên chủ không chịu trách nhiệm. Vẫn theo báo trên, thợ lặn chết không nhiều nhưng bị tai nạn nghề nghiệp thì không ít và chỉ riêng trong năm 2003, đã có 237 thợ lặn Bình Thuận bị liệt, điếc và lối loạn thần kinh, chỉ sau một mùa lặn.
Sò Điệp là món ăn hiền và thông dụng tại Phan Thiết như xào giá, nấu canh chua, lăn bột chiên nhưng thông dụng nhất vẫn là món Điệp Nướng, vì bảo toàn được vị ngọt, vừa rẽ, không đụng tới những món hàng đặc sản dành cho quan quyền và tư bản đỏ. Điệp có hình rẻ quạt như Logo của hãng Shell, thuộc loài nhuyễn thể, có hai mảnh, trong chức cồi rất ngọt và chiếm phần lớn trọng lượng con sò. Hiện Phan Thiết có nghề Điệp Nướng, đó là những gánh hàng rong, vừa bán sò, vừa nướng luôn cho khách ăn tại chỗ, tiền công, hàng, kể cả gia vị, chừng 5-6 ngàn tiền Hồ/ 1 ký.
NGHỀ BẨY MỰC TẠI BÌNH THUẬN : Nhớ những ngày xưa thân ái năm nào, vào mùa hè nóng nực, ngồi dưới rặng dừa xanh xứ Rạng, nghe xôn xao gió thổi từ biển vào nhưng không làm át nổi tiếng sóng vổ đều đều vào các ghành đá như những hòa âm bất tận của quê hương miền biển mặn. Thuở đó người lính Phan Thiết thường đãi bạn lính phương xa bằng món mực nướng, rượu đế công xy, rất bắt mồi và cũng rất tình trong túi tiền lính. Ngày nay về thăm Bình Thuận xã nghĩa, nghe nói tới Món Mực Một Nắng. Đấy cũng là một khúc biến tấu của xứ biển, bởi trong cái ăn bây giờ, là cả mồ hôi nước mắt của người dân biển, một đời gánh chịu sự vất vả trên đôi vai sương gió.
Mực một nắng là tên gọi của món ăn mới xuất hiện tại Bình Thuận chừng năm bảy năm qua, do người đông của hiếm. Buổi trước mực đánh lên còn tươi rói, chỉ cần nhúng chin sơ sơ là có thể ăn ngay trên bãi hay bỏ vào nồi cơm nóng hấp khi ghe còn trên biển, rồi xé chấm với mắm gừng, mù tạt tuỳ theo khẩu vị của mọi người. Sau ngày 30-4-1975 mua thứ gì ngày nay cũng có thể bị gạt, trong đó có món MỰC hiện đang càng ngày càng hiếm vì biển bị nạo tới đáy, không chừa một thứ thủy tộc nào.
Cho nên ra chợ Phan Thiết ngày nay hấp tấp thấy cá, tôm và nhất là mực tươi rói, thì đừng tưởng bở là mực vừa đánh ở biển lên đem bán, vội mua về ăn đâu ngờ đây là mực ươn ba bốn ngày, được ngâm trong nước pha hàn the hay hóa chất, làm con mực trở nên bóng trắng căng phồng như mới bắt nhưng đem về nấu nướng, con mực lập tức chảy ra thành nước và nhão nhoẹt như miếng giẻ rách lâu ngày. Món Mực Một Nắng ra đời, ít nhất cũng là mực tươi thứ thiệt, không có gì đặc biệt trong cách chế biến, ngoài cái ngon tươi của mực Phan Thiết.
Theo Nguyễn Thị Huệ, nữ hoàng mực một nắng kiêm chủ vựa thu gom mực lớn nhất Phan Thiết hiện nay, thì mực có nhiều loại như mực ống chỉ phơi khô, mực nang xuất cảng làm sashimi và đồ hộp, còn MỰC LÁ mới là nguyên liệu làm mực một nắng. Theo Mực Sử, thì tổ sử nghề này là chủ nhân quán nhậu Cây Bàng ở xóm Rạng, nơi nổi tiếng với các món gỏi CÁ MAI, CÁ SUỐT, CHÁO HÀO và MỰC MỘT NẮNG. Mực tươi đem về từ biển, làm sạch rửa bằng nước lợ và sấy ở nhiệt độ 43 C chừng 4-5 giờ, sau đó bỏ vào tủ đá. Hoặc phơi nắng một ngày và phơi sương một đêm cũng vậy.
Mực ống là con vật háu ăn và dễ bị lừa nhất trong loài mực, vì vậy ngư dân thường dùng giẽ làm mồi để dụ mực nổi lên trên mặt nước, rồi dùng vợt mà xúc. Về sau mực khôn hơn và ít, nên mồi giẽ được thay bằng rường, vẫn là những con cá giả làm bằng chì, gỗ hay inox. Tuy nhiên đó là đối với mực ống, chứ còn mực lá thì vô hiệu.
Mấy năm gần đây người câu mực Bình Thuận đã nhái theo bóng mực của Thái Lan, để chế những cái bóng bắt mực lá. Đó là những cái bẩy làm bằng tre, rộng khoảng 80 cm, dài hơn 1m, có một đầu vào giống như chiếc nơm cá. Theo đó mực lá lọt vào bóng rồi thì hết mong ra. Nghề bóng mực hiện phát triển mạnh tại Phú Hài. Để lưa mực, trên bóng người ta che bằng lá dừa tạo bóng mát, bên trong đặt trứng, mực lá nhìn thấy tưởng là ổ mình, nên chun vào rọ và hết ra. Phần lớn đặt trứng giả, mực lá vẫn bị lừa như thường. Hàng năm mùa sinh sản của mực từ tháng giệng tới tháng năm và cũng là mùa bóng mực lá. Các xã Chí Công, Phước Thể, La Gàn (Tuy Phong), Phú Hài, Thanh Hải, Phan Thiết.. chuyên nghề bóng mực lá, thường ra khơi vào lúc 3-4 giờ chiều và vớt bóng trở vào bờ lúc 7-8 giờ sáng hôm sau. Bắt mực sống từ trong bóng bỏ vào túi nylon có nước biển, mực sẽ tươi rói cho tơí khi giao cho vựa hoặc nhà hàng. Riêng mực ống khi câu, thường bị dập túi mật nên không ngon bằng lá.
Theo các ngư dân sống lão làng trong nghề câu mực, cho biết với cái đà nay ai cũng đổ xô đi bóng mực, thì chắc không lâu lắm, loài mực lá trên biển Bình Thuận sẽ tuyệt chủng. VC cũng thông cáo cấm ngư dân không được bóng mực lá trong mùa sinh sản từ tháng 2-6 nhưng nếu vậy thì sẽ lấy gì mua gạo và trên hết còn mực một nắng đâu để bọn tư bản đỏ ăn nhậu"
Một trăm năm Phan Thiết cũng đã qua, bóng thời gian giờ chỉ còn phảng phất trong đám mây bềnh bồng trước mặt, một nơi chốn mà ba trăm năm trước từ lúc còn mang tên Thuận Trấn cho tới Bình Thuận về sau, luôn là bãi chiến trường thê thiết. Nơi đã có không biết bao anh hùng thời đại tới rồi đi, dấy lên xô nghiêng sông núi, để chỉ được một tiếng đời minh quân hay bạo chúa, thế thôi. Ngày nay tất cả đã bị đào xới, nên dù sử sách có bao che, bẻ cong hay chưa nói hết, thì miệng đời bia đá cũng không ngớt châm biếm xỏ xiên , như câu chuyện Tây Tà, Việt Minh, Việt Cộng hay thói đời ăn ở bạc của đám thượng lưu suốt ba trăm năm Bình Thuận.
Qua những nẻo đường quê hương, cái gì cũng thấy mới chỉ riêng đời sống của người dân miền biển mặn vẫn chân lấm tay bùn, dầm mưa chịu sóng trên biển cả. Tóm lại cũng vẫn như năm nào. Bỏ tất cả, để đi tìm vẽ đẹp của quê hương đang vang lên trong tình cảm, tình người, khiến như nghe ran trong hồn, tiếng thì thầm của máu mặn, rồi cùng òa khóc cho Bình Thuận yêu dấu, đang xa cách muôn trùng, khi ba trăm năm nghề biển giờ đây chỉ còn âm vang trong kỷ niệm -
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 8-2009
MƯỜNG GIANG

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.