Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

15/02/200900:00:00(Xem: 2580)

Hồi ký: Thép Đen - Đặng Chí Bình

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.

*

(Tiếp theo...)

Tôi liếc nhìn toàn bộ các toán đang hướng mặt lên phía tên Toán nói chuyện. Tôi đưa mắt nhìn hàng ghế các tên cán bộ đang ngồi trên khán đài. Năm sáu tên lúc nhúc trong đó có cả Hoàng Thanh, đặc biệt không thấy tên Nguyễn Chuân.
Lòng tôi còn bồng bềnh, lãng đãng vì tôi chưa hiểu mục đích chủ trương của chúng muốn cái gì trong lớp học này. Tuy tôi vẫn biết ngoài những đòi hỏi dụng ý riêng của từng lớp học, chúng còn có một mục đích chung là thường xuyên không để cho trí óc người tù ngơi nghỉ. Mãi cho tới khi tên Mạch, trung úy trưởng ban tuyên huấn của trại I nói về nội dung lớp học tôi mới hiểu: lập công ở đây là mỗi người đều phải đào sâu suy nghĩ; vắt lòng vắt óc trong suốt quá trình của đời mình. Lúc soát từng không gian, từng thời gian xem đã nghe, thấy, biết bất cứ cá nhân hay một đảng phái tổ chức chính trị nào dù là bạn bè hay thân quen; còn ở ngoài xã hội hay đã vào tù; ở trong Nam hay ngoài Bắc, xét ra có hại cho cách mạng, cho nhà nước, đều phải viết tỉ mỉ, chi tiết trình bầy sáng tỏ v.v… với nhà nước.
Để làm loãng, làm mất cảnh giác mọi người về cái mục đích này của chúng, hàng ngày những buổi lên lớp rồi về thảo luận, chúng giảng về tinh thần bất khuất, truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc qua các thời đại. Từ bà Trưng, bà Triệu cho đến thời đại Hồ Chí Minh.
Về kinh tế, chúng khích lệ, khêu gợi nào là Tổ Quốc giang sơn gấm vóc giầu đẹp, tiền rừng bạc bể. Chúng vẽ ra một bức tranh huy hoàng đầy tươi sáng của ngày mai khi quân và dân cả nước tiêu diệt xong Mỹ và tay sai ở miền Nam v.v…
Đã mấy lần, trong những giờ giải lao (15 phút) giữa hai buổi lên lớp, tôi đã định xông bừa đến chỗ bà Thụy An để làm quen và thăm hỏi. Nhưng tôi cứ thập thò ngập ngừng mãi chỉ vì có bao nhiêu người cứ xâu xâu vây quanh đám đàn bà con gái. Mà tính tình của tôi ở những giai đoạn ấy còn rất nhiều lẩm cẩm. Tôi thập thò là chủ trương muốn đến nói chuyện với nữ sĩ Thụy An, nhưng mấy cô gái đang được mấy cậu vây quanh chuyện trò có thể tưởng tôi cũng ngất ngây muốn đến với các cô, là điều mà tôi kỵ, chúa ghét. Khi thấy một cô gái có nhiều cậu trai quấn quít thì tôi tránh xa, không bao giờ tôi lại xông vào cũng săn đón chuyện trò chung với họ. Điều này chẳng hiểu sao tôi lại kỳ cục như vậy.
Do cái tính kỳ cục một cây ấy mà mãi chiều ngày hôm sau tôi mới có dịp nói chuyện với bà Thụy An. Lúc đó vừa mãn một giờ giảng bài, thấy bà vội vàng đi một mình xuống phía giếng, tôi lẹ làng lách đám đông chạy theo. Khi đi ngang qua, hơi hồi hộp và ngường ngượng vì tôi chưa biết gọi là bà hay là chị, nên đành phải nói trống không, không có chủ từ. Tôi nghiêng đầu chào rồi nói một hồi:
- Xin chào, tôi ở trong Nam ra Hà Nội hoạt động tình báo, bị bắt vào Hỏa Lò. Tại xà lim I, khi bị giam ở buồng 12, tôi thấy chữ viết trên tường của…ở gần chỗ cái cùm.
Bà Thụy An ngừng hẳn lại, hơi ngạc nhiên nhưng rồi có lẽ bà đã nhìn thấy thái độ lúng túng của tôi nên bà cười, vồn vã hỏi lại:
- Cậu còn đọc được cơ à, thế cậu lên trại lâu chưa"
Thấy gọi tôi bằng cậu và sự ân cần tự nhiên của bà, phần khác, tôi thường chỉ lấn cấn lúc đầu, bởi vậy tôi cũng niềm nở tỏ ân tình:
- Chị có khỏe không"
Chị hơi ngập ngừng rồi trả lời:
- Khỏe!
Tôi hiểu cái ngập ngừng của chị là chị không được khỏe, nhưng để cho qua nên chỉ đã trả lời như vậy. Sau khi chị nói “khỏe” xong, mặt chị tươi lên rồi nói như thân tình:
- Chờ một chút nhé, tối ra mình sẽ nói chuyện tiếp.
Đột nhiên chị cúi sát gần vào tôi hạ giọng:
- Cậu tên gì"
- Bình ạ!
Chị vừa gật nhẹ đầu vừa tất tả bước lên thềm để vào buồng y tá. Quý Cụt đi ngang qua tôi miệng cười cười:
- Quen đấy ư"
Tôi chỉ gật đầu để trả lời Quý vì một ý nghĩ khác đã xộc vào óc tôi. Trông mặt chị ấy như vậy mà lại đã từng giết người hay sao" Bởi thế tôi có ý định cứ hỏi thẳng xem chị trả lời thế nào. Tôi cũng biết làm gì có điều kiện để nói chuyện với chị nhiều. Vừa lúc đó tiếng còi ở phía hội trường đã ré lên như thúc giục mọi người vào lớp nghe giảng bài tiếp vì giờ giải lao đã hết.
Chị từ trong phòng y tá hấp tấp bước xuống sân đi nhanh về phía tôi. Chị khẽ đập tay vào vai tôi ra ý cùng chị đi vào lớp. Thái độ cởi mở như chị đã quen tôi lâu ngày càng làm tôi mạnh bạo thực hiện ý định lúc nãy khi cùng chị đi đến giữa sân:
- Xin lỗi chị, chẳng có điều kiện gặp được chị lâu. Có phải chính chị đã đánh thuốc độc giết ông Đỗ Đình Đạo"
Đang bước những bước dài, đột nhiên chị ngừng hẳn lại, quay sang nhìn tôi. Mắt mở to trán chị cau lại như ngạc nhiên, như dò xét rồi mặt chị như dãn ra, mềm hẳn lại:
- Không phải đâu, câu chuyện dài lắm. Có dịp tôi sẽ nói cho cậu nghe.
Chị vừa lắc đầu vừa trả lời, cũng là lúc cả chị và tôi đã chìm lẩn vào đám đầy người ở hội trường. Lớp học trong một tuần lễ, cứ hết lên lớp nghe giảng lại về tổ sinh hoạt, thảo luận, thu lượm rồi lại lên lớp. Tổ học tập phân chia không tùy thuộc theo toán, mà theo toàn trại. Vì vậy mỗi tổ từ 15 đến 20 người gồm người của nhiều toán khác nhau. Mỗi tổ học tập có một cán bộ đi sát phụ trách. Tôi ở tổ 4, cán bộ phụ trách tên là Hoàng. Y chỉ định cho anh Phán thuộc toán 7 làm tổ trưởng, còn tôi là thư ký ghi chép biên bản sinh hoạt. Tổ tôi 19 người mà chỉ có 4 người thuộc toán 2 là Nguyễn Văn Gôm, Lò Văn Lui, Nguyễn Thanh Đương và tôi.
Trong đợt học tập này, tôi nhớ nhất một chuyện ở ngay trong tổ của tôi. Sáng hôm đó, trên lớp giảng ở hội trường, chủ đề sinh hoạt là: “Cuộc kháng chiến thần thánh oai hùng của vị anh hùng Lê Lợi đất Lam Sơn đã kiên trì, chiến đấu gian khổ trong 10 năm. Cuối cùng đã đuổi được giặc Minh ra ngoài bờ cõi. Người góp công sức nhiều nhất và cũng đầy tài ba mưu lược nhất của cuộc kháng chiến đó là Nguyễn Trãi.”
Tên Mạch trung úy trưởng ban tuyên huấn cứ thao thao bất tuyệt trên bục giảng: nào là Nguyễn Trãi trong giai cấp nông dân. Một giai cấp đồng chí của giai cấp công nhân sau này của đảng. Nào, tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi, cứ như là của một người Cộng Sản thời bấy giờ. Mọi người nghe, thấy ngứa cả tai. Vì vậy khi đến phần thắc mắc về bài giảng; chỗ nào học viên chưa hiểu, hoặc chưa sáng tỏ cứ việc hỏi. Nguyễn Thanh Đương một tu sĩ ở trại Vĩnh Tiến mới chuyển về, giơ tay xin hỏi. Tên Mạch, mắt sáng lên, mặt hớn hở ra hiệu tay cho anh Đương đứng lên phát biểu..
Nguyễn Thanh Đương, dáng người lùn thấp. Tôi nhớ anh nhất vì phía đuôi hai con mắt của anh có nhiều tia ngoằn ngoèo đỏ như máu. Chả hiểu đó là do bệnh đau mắt của anh hay từ khi bẩm sinh" Anh phát biểu rất từ tốn, nằng nặng giọng Nghệ An:
- Thưa ông, theo tôi hai ông Nguyễn Trãi và Lê Lợi rất phong kiến. Đi đến đâu cũng kẻ hầu người hạ, thường ngồi trên ngai, trên kiệu. Tư tưởng thống trị và bóc lột đã thể hiện ra cách sống. Bởi vậy, nếu hai ông ấy sống lại bây giờ, chắc chắn đảng ta sẽ cho hai ông đi cải tạo mút mùa.
Ai nghe cũng tươi mặt lên và buồn cười, nhưng chỉ có vài người cười thành tiếng. Trên bục nói chuyện, tên Mạch xạm hẳn mặt lại, sượng sùng một lúc rồi y nói ngập ngừng:
- Nguyễn Trải và Lê Lợi là hai vị anh hùng của dân tộc, làm sao lại cho đi cải tạo"
Nói đến đây tự nhiên mặt y đanh lại, mắt quắc lên chỉ tay vào anh Đương:
- Vì máu anh là máu phản động, nên mới hỏi bậy bạ như vậy. Về tổ học tập, mọi người trong tổ phải giải phẫu thật kỹ càng tư tưởng phản động ấy.


Rồi để khỏa lấp cái không khí nặng nề đã đọng lại từ khi có câu hỏi của anh Đương, y khỏa tay hỏi nhanh: “Còn ai thắc mắc điều gì khác"” Sau đó y chuyển sang mục thi đua học tập. Chắc tên cán bộ Hoàng phụ trách tổ tôi có chỉ thị đặc biệt, nên y đã bắt tổ sinh hoạt kiểm điểm về chuyện anh Đương mãi tận lúc kẻng lấy cơm mới thôi, trong khi hầu hết các tổ khác đã nghỉ trước đấy gần một giờ rồi. Chưa xong, sau một tuần lên lớp. Đến giai đoạn cá nhân ngồi viết tường thuật cuộc đời, anh Đương lại phải vào nhà kỷ luật. Anh mới ra khỏi kỷ luật hơn nửa tháng trước vì chuyện giật tượng ảnh của Hoàng Thanh.
Về chuyện của chị Thụy An những ngày sau đó, tuy có mấy lần gặp lại chị nhưng chỉ cười hoặc gật đầu chào nhau chứ chưa có dịp nào để tôi nghe tiếp câu chuyện của chị.
Sau một tuần lễ lên lớp nghe giảng và thảo luận, đến phần viết tường thuật cuộc đời của mỗi người. Một tuần sau nữa, tổ nữ lại vào trại E để dự buổi lễ bế mạc của lớp học. Người nào viết xong thì nộp cho cán bộ phụ trách rồi tiếp tục đi lao động. Người nào chưa viết xong thì cứ tiếp tục. Cán bộ đã nhắc nhở rõ ràng: “Viết tỉ mỉ chi tiết, khẩn trương nhưng không hạn chế thời gian.”
Hơn một tuần lễ sau, số người viết xong đến 90 phần trăm, vì thế lớp học đã coi như bế mạc. Chính cái buổi bế mạc lớp học này tôi gặp lại chị Thụy An một lần nữa. Cũng vào giờ giải lao, tôi đang ngồi nói chuyện với Nguyễn Văn Gôm ở hàng ghế phía cuối hội trường, thì chị Thụy An đã đến với tôi. Tay chị đang cầm một tập giấy dầy đã viết rồi. Có thể đấy là bản viết tường thuật cuộc đời của chị, cũng có thể là bản thâu hoạch ghi chép những ý tưởng của cán bộ giảng. Bởi vì ngay từ hôm nọ, tôi đã hiểu chị là tổ trưởng của tổ nữ duy nhất ấy. Tôi và nhiều anh em khác đã trầm trồ bán tán nhìn chị ngồi ghi những ý của cán bộ trên bục giảng. Tay chị thoăn thoắt ghi chép như máy. Tôi có cảm tưởng như chị viết tốc ký.
Sau khi tôi và Gôm vồn vã chào chị, chị ngồi ngay xuống chiếc ghế dài bên cạnh, đặt tập giấy trên đùi, chị vừa cười vừa hỏi tôi:
- Thế cậu Bình ra Bắc từ bao giờ và bị bắt lâu chưa"
- Tôi ra năm 1962, gần một tháng sau thì bị bắt vào Hỏa Lò.
Tôi trả lời chị như vậy, vì Gôm cũng đã biết. Chị nhìn tôi mắt chị loáng lên một chút tiếc nuối:
- Bị bắt sớm quá!
Do hoàn cảnh và thời gian hạn chế, tôi hơi gật đầu như đồng ý với chị. Tôi nghĩ chả cần thanh minh, thanh nga lôi thôi; nhưng Gôm lại bật lên, tỏ ra như một người bạn thân của tôi:
- Công tác của Bình ngắn hạn có 25 ngày thôi mà.
Nỗi băn khoăn của chị như được vơi hẳn, chị quay sang Gôm đon đả:
- Thế còn cậu"
Gôm thì mồm mép một cây nên cũng vồn vã xưng với chị là em:
- Em ở Hà Nội.
Sau khi biết Gôm ở số 42 Khâm Thiên, chị Thụy An lại hỏi Gôm về một người ở Hà Nội mà Gôm cũng biết. Mắt tôi cứ nhìn vào tập giấy chị đang để trên đùi. Mục đích muốn nhìn nét chữ của chị, nhưng tôi lại thấy một góc trang giấy phần ghi lý lịch: Lưu Thị Yến, thôn Hòa Xá, tổng Thái Bình, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Óc tôi vẩn vơ thấy chiều hướng không thể nói chuyện được với chị lâu nữa, phần nữa tôi có nghĩ đâu rằng, có một ngày tôi sẽ phải ngồi viết về chị. Cho nên lẽ ra tôi phải hỏi ngay chị một số chi tiết cần thiết, tôi lại lửng lơ hững hờ buông trôi theo sự việc.
Để rồi mãi gần ba năm sau, tôi đã được chuyển về trại chính (trại xây), thời gian ấy tôi ở toán làm nhà. Một lần toán tôi phải dựng một chòi gác phía sau trại nữ, tôi thoáng thấy một bà già chít khăn vuông thâm, khòm lưng đang đưa dài mái chổi quét con đường đi phía sau trại. Khi bà ta ngẩng đầu lên, tôi đã bàng hoàng đến thộn người ra; không ngờ đó lại là chị Thụy An. Người chị gầy đi, bé nhỏ hẳn lại.
Nhìn thấy tôi chị mừng lộ ra nét mặt. Chị thăm hỏi tôi ríu rít như người thân lâu ngày mới gặp lại. Vì sợ lão cán bộ của toán tôi biết, cho nên sau những câu thăm hỏi về sức khỏe, tôi chỉ biết chị được ra làm tự giác hơn một năm nay. Do tù lâu, và do tuổi già sức yếu nên giám thị trại cho chị hàng ngày đi lao động tự giác (không có cán bộ dẫn giải). Phần việc là làm vệ sinh quét dọn ở trong trại cũng như những khu vực bên ngoài trại.
Chừng hơn nửa giờ sau, trong lúc tôi còn đang mải mê lao động với toán, thừa một lúc tên cán bộ toán không có ở đấy, chị đã lén đưa cho tôi hơn 1 kg sắn đã luộc rồi. Và đấy là lần cuối cùng tôi nhìn thấy chị cho tới bây giờ. Vào đầu năm 1976. Lúc tôi đang ở trại tù Phong Quang, trại trung ương số II, nằm trong tỉnh Yên Bái. Trong một lần nói chuyện vui với anh Kiều Duy Vĩnh, anh cho biết loáng thoáng: nghe đâu, cuối năm 1973, chị Thụy An bị bệnh nặng, gần chết (không rõ bệnh gì) nên Cộng Sản đã thả chị về Hà Nội. Không hiểu từ đấy, cuộc đời chị rồi ra sao" Sau nhiều những năm, tháng nổi trôi trong tù, tôi không hề còn nghe ai nhắc về chị nữa.
Tóm lại, sau đợt học tập “Lập công chuộc tội, chống Mỹ cứu nước”, qua Nguyễn Văn Gôm và bác Lẫm tôi chỉ được biết sơ một chút về cuộc đời của bà Thụy An như sau:
Bà là con gái ông thủ quỹ họ Lưu. Người ta thường gọi là ông Quỹ Lưu ở Hà Đông. Bà nói tiếng Pháp rất rành, thường giao du với những đặc phái viên của hãng thông tấn xã Pháp (A.F.P.). Không những bà viết sách báo, mà còn đôi khi bán tin tức cho các nhật báo Việt ngữ ở Hà Nội nữa. Bởi thế có dư luận bà là người thân Pháp mới có những tin tức đặc biệt như vậy. Hơn nữa, bà lại rất hăng say, năng nổ về lãnh vực chính trị nên cũng có tiếng vang trong nữ giới ở Hà Thành.
Khoảng cuối 1946, cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Dần dà Pháp dùng Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân kỳ cựu của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông Đạo được Pháp giao trách nhiệm thành lập hai tiểu đoàn khinh quân tự trị do Pháp võ trang hoàn bị, gọi là quân thứ lưu động. Mục đích để bình định, mở rộng vòng đai thuộc vùng quốc gia và quấy phá Việt Minh. Tất nhiên cả về tài chính cũng như những phương tiện khác cho hai tiểu đoàn đều do Pháp đài thọ. Đỗ Đình Đạo lại không khá tiếng Pháp vì vậy Pháp đã gài bà Thụy An vào làm chánh văn phòng để giao dịch bằng văn thư với Pháp hoặc thông dịch trong những khi giữa Pháp và Đạo cần đàm thoại.
Đại bản doanh của hai tiểu đoàn khinh quân thuộc thứ lưu động kể trên đóng căn cứ tại Ngã Tư Sở, ranh giới giữa Hà Nội và Hà Đông. Dư luận của chính giới cũng như của Hà Nội bấy giờ đều cho rằng: do điều kiện và cảnh sống tiếp cận như vậy đã tạo lên một mối tình luyến ái giữa hai người. Vả lại họ thường thấy hai người đi đôi như một cặp bài trùng. Nhất là lúc này, mỗi khi bà viết báo hay truyện lại thường lấy bút hiệu là Thụy An Hoàng Dân. Mà Hoàng Dân lại là bí danh của Đỗ Đình Đạo.
Mỗi tháng Pháp phải trả lương cho hai tiểu đoàn này số tiền 350.000 đồng tiền bấy giờ. Vào đầu năm 1954, lúc này tình hình chiến sự rất căng thẳng ở khắp nơi thuộc 3 nước Việt, Miên, Lào, mà gay go nhất là trận chiến Điện Biên Phủ. Một lần vào cuối tháng cũng như mọi khi, buổi chiều Đỗ Đình Đạo đánh xe đi Hà Nội nhận tiền về, để phát lương cho binh lính dưới quyền. Nhưng sáng hôm sau, người lính cận vệ không thấy Đỗ Đình Đạo ở đại bản doanh cũng như ở văn phòng làm việc tại nhà. Anh ta vào gõ cửa buồng ngủ cũng không có tiếng trả lời. Anh đi kêu mấy người đồng đội phá cửa vào phòng thì thấy Đỗ Đình Đạo chỉ còn là cái xác không hồn, nằm cứng đơ ở cạnh tủ áo. Còn Thụy An là chánh văn phòng thì mất tích. Sau hai ngày im lặng để nhà chức trách điều tra, báo chí Hà Nội đã tung tin rùm beng: “Đỗ Đình Đạo bị chết vì thuốc độc. Dư luận kết tội Thụy An đã đầu độc Đỗ Đình Đạo.” Sau đấy hai tiểu đoàn khinh quân trở thành địa phương quân thuộc tỉnh Hà Đông.
Theo dư luận báo chí thời gian ấy, chả hiểu là đúng hay sai: Thụy Anh ẵm số tiền kếch xù về quê thuộc vùng kiểm soát của Việt Minh, đem dâng nộp cho ủy ban hành chính kháng chiến huyện Ứng Hòa để lập công chuộc tội. Nhưng nghe đâu Việt Minh không tin, chúng đặt vấn đề đây là do Pháp làm mồi để cài Thụy An vào hàng ngũ kháng chiến; cho nên tiền thì chúng lấy, còn người thì chúng giam để khai thác.
Sau hội nghị Genève về Đông Dương, chúng đem bà về quản chế tại địa phương. Nhưng vào đầu năm 1958, bà bị bắt lại trong chiến dịch Cộng Sản đánh phá văn nghệ sĩ miền Bắc xuyên qua phong trào “Nhân văn giai phẩm” đã gián tiếp phản đối sự lãnh đạo văn hóa tuyệt đối của đảng. Lợi dụng dịp “Trăm hoa đua nở” này, bà cũng viết mấy bài báo đăng trên tuần báo Văn tỏ ý gián tiếp chống đối lề lối văn nghệ chỉ huy của đảng. Lần này chúng bắt bà với tội danh: phản tuyên truyền và làm gián điệp cho CIA Mỹ. Khi khai thác cung bà ở Hỏa Lò, chúng cứ gán ghép, truy hỏi: những mạng lưới tình báo thuộc phòng nhì của Pháp ở miền Bắc, bây giờ đã được chuyển sang cho tình báo Mỹ.
Tôi ngồi nghe bác Lẫm kể về chị Thụy An, nhưng lòng vẫn bán tin, bán nghi chưa hiểu đâu là sự thật của vấn đề, bởi vì dư luận có phải bao giờ cũng chính xác đâu.
Chương 38: Đời Tù Cũng Có Cái Vui
Tôi đã nói nhiều về Nguyễn Văn Gôm chỉ vì Gôm đã trở thành người bạn tư tưởng của tôi. Hàng ngày chúng tôi chuyện trò với nhau thật là thoải mái tâm đắc, tin cậy lẫn nhau. Tôi nhớ lại, chỉ sau mấy ngày Gôm ở trại Vĩnh Tiến chuyển về. Tôi để ý một anh cứ vào những buổi trưa, hoặc buổi tối sau giờ sinh hoạt của toán hay tổ. Anh có một ngọn đèn con tí làm bằng chiếc lọ Peniciline; anh ngồi miệt mài đọc sách. Cho đến một buổi tối hôm ấy, một tên bộ đội đi đi, lại lại gác bên ngoài đã đập báng súng vào cửa sổ chỗ anh ta đang ngồi đọc sách quát inh ỏi:
- Anh này đọc sách gì đấy, đưa đây coi!
Tiếng quát làm cho nhiều người quay lại theo dõi. Từ mấy hôm trước tôi cũng đã hơi tò mò muốn biết anh đó đọc loại sách gì nên tôi đã tiến lại gần chỗ tên bộ đội. Tên bộ đội, lôi cuốn sách ra ngoài song cửa, dùng đèn bấm coi; y lật, mở các trang sách; y cho sát miệng vào cửa sổ dằn từng tiếng như hạch hỏi:
- Sách gì mà toàn hình thế này"
Anh đọc sách có một cái cười thật đáng ăn quả thụi, anh ta còn nhay nháy mắt trả lời:
- Sách “Maths” của Liên Xô đấy!
Chắc thấy nói tới Liên Xô nên giọng tên bộ đội dù còn vẻ thắc mắc nhưng đã dịu hẳn lại. Y thò cuốn sách vào trong song cửa trả lại:
- “Mát” là cái gì" Cứ vẽ bậy, vẽ bạ thôi à!
Anh đó cầm lấy cuốn sách, nụ cười riễu cợt lại càng xòe rộng thêm ra. Anh quay lại cũng vừa bắt gặp cái cười đồng tình của tôi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.