Hôm nay,  

Các Vấn Đề Trong Bang Giao Mỹ-việt

04/10/200400:00:00(Xem: 5591)
(Bài nói chuyện trước Đại hội 2004 của Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ -- George Mason University, 11/9//2004)
Thưa quý vị,
Thưa các bạn,
Bang giao Việt Mỹ trải qua nhiều giai đoạn từ lạnh nhạt đến đối đầu qua nhiều năm dò dẫm điều đình để dần dần đi đến bình thường hóa bang giao giữa hai nước, mỗi giai đoạn lại có những vần đề riêng của nó.
Bài nói chuyện của tôi gồm hai phần: 1) tiến trình bang giao Mỹ-Việt, và 2) các vấn đề hiện nay trong mối quan hệ Mỹ-Việt.

I. Tiến trình bang giao Mỹ-Việt
Bang giao Mỹ-Việt từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt có thể được chia làm bảy giai đoạn chính.

1. Tính lầm và hờ hững, 1975-76
Tính lầm và hờ hững là đặc tính của mối quan hệ giữa hai nước trong hai năm đầu sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Việt Nam hiểu lầm, đống hóa phong trào chống chiến tranh ở Mỹ với sức mạnh của những thành phần ủng hộ chính quyến cộng sản Việt Nam, cho rằng Mỹ cần bang giao với mình. Vì thế, họ đặt điều kiện Mỹ phải bồi thường chiến tranh mới chịu thiết lập quan hệ bình thường với Mỹ. Đòi hỏi này căn cứ vào văn thư của Nixon ngày 1 tháng 2 năm 1973 gửi cho Phạm Văn Đồng nói đến “nguyên tắc” Mỹ sẽ đóng góp vào việc tái thiết Bắc Việt sau khi hòa bình được vãn hồi, và ước tính số tiến cần để tái thiết Việt Nam là 3.25 tỷ Mỹ kim.
Trong khi đó, chính quyền Ford, cay cú vì thua trận, đã lên án Bắc Việt vi phạm hiệp định Paris cho nên không có quyền đòi Mỹ thi hành lời hứa viện trợ một khi hòa bình được tái lập. Mỹ đòi ngược lại, là Việt Nam phải cung cấp trọn vẹn tin tức (full accounting) về số phận những người Mỹ bị mất tích trong chiến tranh và phải chứng tỏ không có tham vọng bành trướng ở Đông Nam Á. Thêm vào đó, chính quyền Mỹ còn phong tỏa các tích sản của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũ không trả lại cho chính phủ mới, và nới rộng chính sách phong tỏa kinh tế đối với Bắc Việt để áp dụng cho toàn thế lãnh thổ Việt Nam. Từ 1975 đến 1976, Mỹ đã ba lần phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc của Việt Nam.

2. Cơ hội bỏ lỡ, 1977-78
Năm 1977, nước Mỹ có chính phủ mới. Jimmy Carter chống chiến tranh Việt Nam. Khi lên cầm quyền, Tổng Thống Carter muốn “hàn gắn vết thương chiến tranh.” Ông chỉ định lãnh tụ nghiệp đoàn Leonard Woodcock hướng dẫn một phái đoàn sang thăm Việt Nam. Trong chuyến thăm này, Viêt Nam trao trả 11 hài cốt lính Mỹ tử trận cho phái đoàn Woodcock. Đổi lại, Woodcock tuyên bố không còn người Mỹ sống sót nào ở Việt Nam và cho rằng đòi Việt Nam phải “cung cấp trọn vẹn” tin tức về người Mỹ mất tích trong chiến tranh là điều không hợp lý. Mỹ còn tuyên bố sẽ không phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc của Việt Nam, nhờ đó đến tháng 7/1997, Việt Nam được thu nhận vào tổ chức quốc tế này. Tuy chính quyền Carter không chịu bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, nhưng không loại bỏ khả năng viện trợ cho Việt Nam.
Những hành động hòa hoãn này dọn đường cho cuộc thảo luận giữa đại diện hai nước ở Paris vào tháng 5/1977 nhằm đi đến bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Sợ chính quyền Carter nhân nhượng quá đáng, một số chính khách Mỹ lên án chính sách “đổi hài cốt lấy đô-la” (bones for dollars) của Việt Nam; cả Thượng Viện lẫn Hạ Viện Mỹ đều biểu quyết cấm chính quyền viện trợ cho Việt Nam.
Mùa Thu năm 1978, trong phiên họp cuối cùng với đại diện Mỹ, Richard Holbrooke, Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch vẫn bắt đầu bằng cách đòi Mỹ phải viện trợ như một điều kiện để bình thường hóa quan hế ngoại giao, đến khi ông chịu bỏ điều kiện này thì quá muộn. Lúc ấy mâu thuẫn Hoa-Việt đã trở nên căng thẳng và Mỹ đã chọn thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Quốc, vì thế cắt đứt cuộc thương thuyết Mỹ-Việt.

3. Giai đoạn thù nghịch, 1978-81
Mùa Xuân năm 1978, Việt Nam mở chiến dịch đánh tư sản mại bản nhắm vào giới thương mại Hoa Kiều ở Chợ Lớn đồng thời tạo ra cuộc khủng hoảng thuyền nhân và căng thẳng trong quan hệ Việt-Hoa. Trước nhu cầu tìm đồng minh, Việt Nam gia nhập khối tương trợ kinh tế do Nga Xô lãnh đạo (COMECON), rồi ký hiệp ước thân hữu dài hạn với Nga Xô (tháng 11/1978). Cuối tháng 12, Việt Nam đưa quân vào Cam Bốt, loại Khmer Đỏ, dựng lên chính quyền Heng Samrin-Hun Sen. Tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc tràn sang đánh phá miền giới Việt Nam nhằm mục đích mà Đặng Tiểu Bình rêu rao là “dạy cho Việt Nam một bài học.”
Cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Cam Bốt đe dọa nền an ninh của các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á. Trung Quốc lên án Việt Nam là một “Cuba ở Đông Nam Á” (ý nói Việt Nam là một dụng cụ của Nga Xô để bành trướng ảnh hưởng tại Đông Nam Á cũng như vai trò của Cuba ở Phi Châu). Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) nương vào Trung Quốc, giúp phe kháng chiến Cam Bốt chống Việt Nam. Mỹ cũng toa dập với Trung Quốc để ngăn chặn Nga Xô ở Á châu, chống lại Việt Nam. Lúc ấy, Mỹ tuyên bố chính sách “ba không”đối với Việt Nam: không buôn bán, không viện trợ, và không bang giao với Việt Nam.
Đây là giai đoạn đoạn tuyệt bang giao, Mỹ và Việt Nam đứng vào thế đối đầu trong cuộc chiến tranh ở Cam Bốt.

4. Thương thuyết bắt đầu, 1982-86
Năm 1981, Reagan lên nắm quyền tại Hoa Kỳ. Reagan có thái độ cứng dắn với Cộng Sản. Khi khánh thành Đài Kỷ Niệm Chiến Tranh Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn, ông tuyên bố cuộc chiến tranh mà người Mỹ tham dự ở Việt Nam là chiến tranh có chính nghĩa (a noble cause), và cam kết sẽ đòi Việt Nam phải cung cấp tin tức về người Mỹ mất tích trong chiến tranh.
Trong khi đó, Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn kinh tế. Cuộc xâm lăng Cam Bốt và sự chống đối của Hoa Kỳ, Trung Quốc, và ASEAN dồn Việt Nam vào thê cô lập về cả kinh tế lẫn ngoại giao. Để phá thế cô lập ngoại giao, Việt Nam mở chiến dịch ngoại giao thật sớm để vận động thế giới tham dự vào lệ kỷ niệm 10 năm ngày “giải phóng” Sài Gòn.
Tháng 2 năm 1982, Mỹ gửi một phái đoàn chính thức sang thăm Việt Nam. Khác với thời Carter, đây là lúc Mỹ ở thế thựợng phong, đặt điều kiện cho việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao hai nước. Lập trường của Mỹ là:
Thứ nhất, phải tách rời các vấn đề nhân đạo (tù binh chiến tranh/người Mỹ mất tích, con lai, tù cải tạo, ra đi trật tự) với các vấn đề chính trị (bình thường hóa quan hệ ngoại giao, trao đổi mậu dịch, và viện trợ). Vấn đề nhân đạo phải được giải quyết riêng và thương thuyết trước.
Thứ hai, việc thương thuyết để bình thường hóa quan hệ ngoại giao chỉ bắt đầu sau khi Việt Nam rút quân khỏi Cam Bốt và thành thật cộng tác để đạt được giải pháp cho cuộc chiến tranh ở Cam Bốt. Nhịp độ nhanh chậm và phạm vi bình thường hóa ngoại giao sẽ tùy thuộc vào các tiến bộ trong việc giải quyết các vấn đề nhân đạo.
Thứ ba, trong khi chờ đợi, Mỹ vẫn duy trì chính sách “ba không” đối với Việt Nam: không buôn bán, không viện trợ, không bình thường hóa bang giao.

5. Những tiến bộ chậm chạp, 1987-92
Để chứng tỏ quyết tâm trong việc tìm kiếm người Mỹ mất tích, Tổng Thống Reagan bổ nhiệm tướng Vessey làm đại diện Tổng Thống Mỹ trong vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích và tù binh chiến tranh. Đây là giai đoạn có trao đổi, tương nhượng thật sự giữa hai bên.
Về phía Việt Nam, sau khi Gorbachev thi hành chương trình tái cấu trúc kinh tế (perestroika), cởi mở chính trị (glasnost), hòa hoãn với Mỹ, Việt Nam cũng phát động chính sách đổi mới-- cải cách kinh tế và đổi mới tư duy. Khủng hoảng kinh tế và nhu cầu phải phá vỡ thế cô lập ngoại giao và kinh tế khiến Hà Nội có thái độ mềm mỏng hơn trong cuộc mặc cả với Mỹ. Năm 1986, Việt Nam đồng ý phối hợp với Mỹ để tìm kiếm hài cốt người Mỹ mất tích ở Việt Nam (joint searches). Năm 1987, Việt Nam mở cửa đón đầu tư ngoại quốc. Năm 1998, Việt Nam bắt đầu rút quân khỏi Cam Bốt. Năm 1989, Việt Nam tuyên bố hoàn tất việc triệt thoái quân đội khỏi xứ này.
Mỹ đáp ứng bằng cách bỏ bớt các hạn chế du lịch đối với Việt Nam, cho phép các thương gia Mỹ thăm viếng Việt Nam nhưng chưa được phép đầu tư. Năm 1990, cuộc gặp gỡ cao cấp lần đầu tiên giữa các ngoại trưởng James Baker của Mỹ và Nguyễn Cơ Thạch của Việt Nam diễn ra ở New York, và lệnh hạn chế đi lại được tạm ngưng để Nguyễn Cơ Thạch có thể từ New York xuống Washington, DC gặp gỡ các nhà lãnh đạo Mỹ. Chính phủ Mỹ còn gửi một phái đoàn sang Việt Nam để nghiên cứu những vấn đề nhân đạo của Việt Nam và khuyến khích các tổ chức phi chính phủ trợ giúp nhân đạo cho Việt Nam.
Tháng 4/1991, lần đầu tiên một phái đoàn thương mại của chính quyền Mỹ viếng thăm Việt Nam. Cũng trong tháng ấy, chính phủ Mỹ trao cho Việt Nam một “lộ đồ” (road map) bốn giai đoạn, ấn định rõ những điều mà Việt Nam phải thực hiện để đổi lấy các tương nhượng đáp ứng của chính phủ Mỹ, từng bước tiến đến bình thường hóa hoàn toàn quan hệ ngoại giao, đồng thời cấp cho Việt Nam 3 triệu Mỹ kim viện trợ nhân đạo. Tháng 10 năm ấy, Việt Nam tuyên bố ủng hộ kế hoạch hòa bình của Mỹ ở Cam Bốt, Ngoại trưởng James Baker tuyên bố sẵn sàng đi đến bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Tháng 12, Mỹ cho phép các hãng du lịch Mỹ tổ chức các chuyến đi thăm viếng Việt Nam. Tháng 4/1992 Mỹ cho phép hãng buôn Mỹ bán hàng hóa cho Việt Nam để đáp ứng các nhu cầu căn bản của con người, bãi bỏ mọi hạn chế đối với các dự án giúp Việt Nam của những tổ chức phi chính phủ và bất vụ lợi, và tái lập liên lạc viễn thông với Việt Nam.

6. Bình thường hóa quan hệ ngoại giao, 1993-98
Năm 1993, Mỹ có Tổng Thống mới. Bill Clinton hồi trẻ là một sinh viên phản chiến. Cũng như Carter, ông muốn nhanh chóng bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam nhưng, để tránh gặp phản ứng bất lợi như thời Tổng Thống Carter, ông phải hành động thận trọng. Chính quyền Clinton tuyên bố ủng hộ “lộ đồ” bình thường hóa quan hệ ngoại giao của chính quyền Bush. Những bước tiến dò dẫm bắt đầu. Tháng 4/1993 công ty tư vấn Vatico là công ty Mỹ đầu tiên mở văn phòng ở Việt Nam. Cuối tháng 5, đúng ngày tưởng niệm chiến sĩ trận vong (Memorial Day), Thượng nghị sĩ John Kerry hướng dẫn một phái đoàn nghị sĩ lưỡng đảng sang thăm Việt Nam. Khi trở về, một số nghị sĩ lên tiếng khuyến cáo chính phủ nên xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Ngày 2/7/1993 Tổng Thống Clinton tuyên bố Mỹ sẽ không phủ quyết việc các định chế tài chính thế giới viện trợ cho Việt Nam, nhấn mạnh rằng “những bước tiến kế tiếp trong việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào sự cộng tác của Việt Nam trong vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích, những tiến bộ hiện nay chưa đủ để chúng ta cần thay đổi chính sách cấm vận Việt Nam và đi thêm bước nữa trong việc bình thường hóa bang giao” với Việt Nam. Tháng 9 năm đó, chính quyền Clinton tái tục chính sách cấm vận, những cũng nới lỏng chi tiết để cho phép các công ty Mỹ tham dự đấu thầu các dư án đầu tư ở Việt Nam, nhưng chưa được thực hiện những dự án ấy.
Sau nhiều lần trì hoãn, cuối cùng Ủy ban Kerry cũng hoàn tất được một phúc trình. Một nhóm nghị sĩ thuộc cả hai đảng (trong đó có Thượng nghị sĩ Cộng Hòa John McCain) viết thư yêu cầu Tổng Thống Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam. Ngày 24/1/1994, Thựong Viện Mỹ chấp thuận một tu chính án trong đạo luật chuẩn chi ngân sách của bộ Ngoại giao đòi hỏi chính phủ phải chấm dứt lệnh cấm vận. Nương vào đó, ngày 3/2/1994 Tổng Thống Clinton bãi bỏ cấm vận Việt Nam, lập luận rằng đó là cách tốt nhất để giải quyết việc tìm kiếm tin tức về số phận những người Mỹ mất tích.

Tiếp sau đó, hai bên tiến hành thương thuyết về vấn đề tích sản của Việt Nam bị Mỹ phong tỏa. Cuối tháng 1/1995, hai bên đạt thỏa thuận giải quyết tranh chấp tài sản và trao đổi văn phòng liên lạc. Tháng 5, Việt Nam trao cho Mỹ môt mớ tài liệu liên quan đến người Mỹ mất tích, mớ tài liệu mà bộ Quốc phòng Mỹ công nhận là chứa đựng nhiều tin tức và chi tiết nhất từ trước đến nay. Tháng 6, hai bên ký kết biên bản trao đổi văn phòng liên lạc. Tháng 7, Tổng Thống Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam vì theo ông, đây là lúc phải đi tới để “hàn gắn vết thương chiến tranh.” Ngoại trưởng Mỹ Warren Christopher được cử sang Việt Nam để khánh thành tòa Đại sứ Mỹ ở Hà Nội.
Tháng 4/1997, Mỹ trao cho Việt Nam một văn kiện liệt kê các điều kiện để bình thường hóa quan hệ thưong mại. Cuộc thương thuyết lần đầu tiện về trao đổi mậu dịch giữa hai nước được khai diễn ở Hà Nội hồi tháng 9/1996. Ngày 7/4/1997, Hà Nội bằng lòng trả cho Mỹ khoản nợ cũ của Việt Nam Cộng Hòa, khoảng $145 triệu Mỹ kim.Mười hôm sau, hai bên ký với nhau hiệp ước bảo vệ tác quyền. Tháng 5, hai bên trao đổi đại sứ, hoàn tất việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

7. Tiến tới việc xây dựng một mối quan hệ bền vững, 1998 –
Tháng 3/ 1998, Tổng Thống Clinton quyết định miễn áp dụng tu chính án Jackson-Vanik để cho phép Cơ Quan Đầu Tư Tư Nhân ở Ngoại Quốc (OPIC) và Ngân Hàng Xuất-Nhập Cảng của Mỹ được phép liên hệ với Việt Nam. Tháng 10, Phó Thủ Tướng Việt Nam, Nguyễn Mạnh Cầm đến thăm Ngũ Giác Đài. Ông là viên chức chính phủ đầu tiên cao cấp nhất của Việt Nam đến Hoa Kỳ trong một cuộc viếng thăm chính thức.
Tiến bộ trong bang giao Việt-Mỹ sau đó xẩy ra dồn dập. Tính đến đầu năm 1999, Việt Nam đã trao trả cho Mỹ 506 bộ hài cốt. Tháng 7/1999 Việt Nam ký với Hoa Kỳ một nghị định thư cam kết mở rộng thị trường Việt Nam cho hàng ngoại quốc để đổi lấy việc Mỹ mở rộng cửa nhận hàng xuất cảng từ Việt Nam.
Sau nhiều lần trì hoãn, tháng 3/2000, Việt Nam đón nhận chuyến viếng thăm của Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ William Cohen. Ba tháng sau, Mỹ cam kết viện trợ nhân đạo cho Việt Nam một ngân khoản 1 tỷ 7 Mỹ kim để giúp Việt Nam tìm và hủy những mìn bãy còn lại trên đất Việt từ thời kỳ chiến tranh. Tháng 7, một hiệp định thương mại quan trọng được ký kết giữa hai nước. Tháng 11/2000 Clinton tới Việt Nam trong một cuộc thăm viếng chính thức. Đây là lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh chấm dứt, một vị Tổng Thống Hoa Kỳ đưong nhiệm đến Việt Nam. Chuyến viếng thăm của Clinton được tiếp nối bởi chuyến viếng thăm Việt Nam của Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ Colin Powell, một người đã trực tiếp tham chiến ở Việt Nam (tháng 7/2001) và chuyến đi công tác Mỹ của Phó Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (tháng 1/2002) sau khi quốc hội hai nước phê chuẩn hiệp ước thương mại song phương (tháng 10 và 11/2001).
Việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao đã được nối tiếp bằng việc tăng cường quan hệ thương mại giữa hai nước. Bước kế tiếp là phát triển mối quan hệ quân sự và chiến lược qua những cuộc viếng thăm qua lại. Tháng 2/2002 Đô Đốc Dennis Blair, Tư Lệnh Lực Lượng Thái Bình Dương của Mỹ sang Việt Nam để thảo luận với các nhà lãnh đạo quân đội Việt Nam. Tháng 11/2003, Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, Trung Tướng Phạm Văn Trà, sang thăm Mỹ. Ông là nhà lãnh đạo quân sự cao cấp nhất của Việt Nam tới Mỹ kể từ khi chiến tranh chấm dứt. Cùng trong tháng ấy, chiến hạm Hoa Kỳ Vandegrift cập bến Sài Gòn, đánh dấu lần đầu tiên quân nhân Mỹ trở lại Việt Nam trong một sứ mệnh hòa bình và thân hữu.Chuyến viếng thăm của tướng Trà được đáp lễ bằng chuyến viếng thăm Việt Nam tháng 2/2004 của Đô Đốc Thomas Fargo, tân Tư lệnh Lực Lương Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, rồi cuộc viếng thăm Đà Nẵng ngày 28/7/2004 của chiến hạm Mỹ USS Curtis Wilbur, 39 năm sau khi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ lên hải cảng này để tham chiến tại Việt Nam.
Chỉ một tháng sau chuyến thăm Mỹ của Tướng Trà, Phó Thủ Tướng Việt Nam Vũ Khoan dẫn một phái đoàn thương mại đi vòng quanh nước Mỹ để cổ võ đầu tư và trao đổi thương mại (tháng 12/2003). Tuyên bố với báo giới Mỹ, cả Tướng Trà lẫn Phó Thủ Tướng Khoan đều nói mục đích của họ là đến Mỹ để thảo luận với các nhà lãnh đạo Mỹ nhằm “đặt nền móng cho một mối quan hệ bền vững” giữa Việt Nam và Mỹ trên căn bản tương kính và lưỡng lợi. Bang giao Mỹ-Việt bắt đầu đi vào một giai đoạn mới.

II. Các Vấn Đề Trong Bang Giao Viêt-Mỹ
Có sáu loại vấn đề chính trong quan hệ Việt-Mỹ hiện nay.

1. Vấn đề kinh tế/thương mại
Hiện nay, quan hệ kinh tế là nền tảng của bang giao Việt-Mỹ, ít nhất là trên quan điểm của Việt Nam. Mối quan hệ này đặt trên căn bản lưỡng lợi và có thể dùng làm viên đá lót đường cho việc xiết chắt mối bang giao tống quát giữa hai nước.
Dưới mắt giới thương gia Hoa Kỳ, Việt Nam là một thị trường quan trọng với 81 triệu nhà tiêu thụ, và một nguồn cung cấp nhân công rẻ và chịu khó. Đối với Việt Nam, Mỹ là một thị trường lớn nhất thế giới và là nguồn cung cấp kỹ thuật và vốn đầu tư lớn lao.
Vấn đề nóng hiện nay là tranh chấp giữa hai bên về vấn đề nhập cảng cá tra và tôm từ Việt Nam vì các nhà sản xuất Mỹ lên án Việt Nam bán phá giá ngư phẩm của họ vào thị trường Mỹ, gây thiệt hại cho ngư dân Mỹ. Tuy nhiên, đây chỉ là một vấn đề khó chịu, nó không phải là một trở ngại lớn cho việc tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa hai nước. Bất đồng ý kiến và tranh chấp thương mại là sự kiện bình thường trong thương mại quốc tế. Tranh chấp thương mại đã từng xảy ra giữa Mỹ với Nhật, với Trung Quốc, và với các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu. Tranh chấp thương mại gây ra căng thẳng nhưng rồi ra sẽ được giải quyết ôn hòa vì việc trao đối thưong mại làm cho hai bên đều có lợi. Vì thế, hai quốc gia Việt Mỹ sẽ phải tìm cách tương nhượng lẫn nhau để duy trì và phát triển quan hệ kinh tế và thương mại.
Phần lớn các vấn đề trong quan hệ thưong mại giữa Mỹ và Việt Nam bắt nguồn từ việc Mỹ xếp nền kinh tế Việt Nam vào loại “không phải là kinh tế thị trường” (non-market economy) do đó đã, một cách máy móc, áp dụng những thủ tục khác biệt trong việc trao dổi thương mại với Việt Nam. Vấn đề đặt hạn ngạch (quota) giới hạn số hàng nhập cảng từ Việt Nam sang Mỹ sẽ chấm dứt một khi Việt Nam đựoc chấp nhận vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Mỹ đã hứa sẽ ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO và đã xúc tiến dự án START cố vấn kỹ thuật cho Việt Nam để Việt Nam nhanh chóng thỏa mãn những điều kiện của WTO.
Bất kế những khó khăn và mâu thuẫn kể trên, từ khi hiệp ước thương mại song phương được phê chuẩn, quan hệ kinh tế giữa hai nước đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Hai năm sau khi hiệp định thương mại Mỹ-Việt được phê chuẩn, trị giá hàng hóa trao đổi giữa hai nước đã tăng từ 1.5 tỷ Mỹ kim năm 2001 lên đến 2.3 tỷ Mỹ kim năm 2002, rồi 5 tỷ Mỹ kim năm 2003 khi Mỹ đã vượt Nhật để trở thành thị trường lớn nhất cho hàng xuất cảng từ Việt Nam.
Cuộc viếng thăm Hoa Kỳ cuối năm 2003 của Phó Thủ Tướng Việt Nam Vũ Khoan cũng đem lại một số kết quả cụ thể: hai bên đã ký kết với nhau một hiệp ước hàng không quan trọng, cho phép các hãng hàng không của hai nước thực hiện các chuyến bay trực tiếp giữa hai nước. Ngay sau đó, American Airlines đã mở văn phòng bán vé đầu tiên ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, và đang xin chính phủ Mỹ cứu xét đơn xin chia xẻ các chuyến bay với Air Vietnam. Mỹ cũng đồng ý là, trong tương lai, Việt Nam sẽ được phép xuất cảng sản phẩm cao-su sang thẳng Mỹ mà không cần phải qua trung gian như trước.
Ngay trong hai tháng đầu năm 2004, hai phái đoàn thương mại Mỹ đã đến Việt Nam. Cuộc viếng thăm tháng 1/2004 của 14 nhà đầu tư lớn của Mỹ trong chương trình “Khuyến khích đầu tư Mỹ tại Việt Nam” được nối tiếp bằng chuyến viếng thăm tháng 2/2004 của một phái đoàn 12 hãng lớn của Mỹ dưới sự hướng dẫn của chủ tịch Hội đồng Thương Mại Mỹ-Đông Nam Á. Phái đoàn này hứa sẽ ủng hộ Việt Nam trong vụ kiện phá giá tôm, giúp Việt Nam xuất cảng vải vóc và quần áo sang Mỹ, và ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO.


Nguyên nhân trực tiếp gây ra tranh chấp thương mại Mỹ-Việt bắt nguồn từ việc hai nước, nước này bất mãn với chính sách thương mại của nước kia. Việt Nam không hài lòng về các biện pháp bảo vệ thị trường của Mỹ trong khi đó thì Mỹ lại bất mãn với những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và sự thiếu trong sáng trong tiến trình quyết định về các dự án đầu tư ngoại quốc của Việt Nam. Nhân chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Phó Thủ Tướng Việt Nam Vũ Khoan, Mỹ đã đưa cho ông một danh sách các khiếu nại của giới đầu tư Mỹ, kể cả những hạn chế trong việc sử dụng đất thuê, chính sách phân biệt đối xử, và sự mù mờ trong tiến trình quyết định của Việt Nam.
Để vượt thắng những chống đối này, Việt Nam cần định chế hóa những nỗ lực vân động hành lang tại Mỹ. Những nỗ lực này ngoài việc vận đông chính phủ và quốc hội Hoa Kỳ còn phải nhắm vào chính quyền địa phương và các tổ chức tư nhân, như các kỹ nghệ nhập cảng của Hoa Kỳ, các nhà đầu tư cũng như các nhóm nghiệp đoàn Mỹ. Trong vụ kiện tôm, Việt Nam đã khởi sự làm công tác này.

2. Trao đổi văn hóa và giáo dục
Đây là một lãnh vực mà cả hai bên đều ủng hộ, cho rằng nó sẽ đem đến sự hiểu biết lẫn nhau và tăng cường sự hợp tác giữa hai quốc gia. Trong quá khứ, các cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của các phái đoàn văn nghệ Việt Nam đã gặp phải sự chống đối của người Việt tại Hoa Kỳ. Sự tham dự của người Mỹ gốc Việt vào việc trao đổi văn hóa giữa hai nước có thể gây ra vấn đề vì chính quyền Việt Nam thường dị ứng với sự hiện diện của họ.
Việc trao đổi giáo dục giữa hai nước cũng không xảy ra một cách bình đẳng, bắt nguồn từ sự khác biệt giữa Mỹ và Việt Nam trong nhu cầu giáo dục cũng như trong phẩm chất của nền giáo dục. Hiện nay có khoảng 2,500 sinh viên Việt Nam du học tại Mỹ nhưng có rất ít sinh viên Mỹ du học ở Việt Nam.
Ngoài học bổng cho sinh viên Việt Nam do các nhóm và hiệp hội tư cung cấp, chính phủ Mỹ cũng đã có những cố gắng đáng kể để giúp Việt Nam về phương diện này. Chương trình Fulbright choViệt Nam và Quỹ Giáo Dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation), mỗi chương trình đã dành ra 5 triệu Mỹ kim một năm để đem sinh viên Việt Nam sang Mỹ du học trong các ngành khoa học và kỹ thuật. Chỉ với ngân khoản do hai cơ quan này cung cấp, Việt Nam là nước nhận được ngân khoản viện trơ giáo dục của Mỹ lớn nhất so với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Càng ngày số chuyên viên Việt Nam được huấn luyện tại Mỹ càng đông, và sẽ có những đóng góp tất yếu vào mối bang giao Việt-Mỹ và quan hệ giữa Việt Nam và người Việt hải ngoại, nhất giữa các thành phần trong thế hệ trẻ.

3. Vấn đề nhân đạo
Trong khi chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tích vẫn tiếp tục, kết quả đạt được trong chương trình này gần như đã đến mức tối đa. Chính quyền Mỹ đã bày tỏ sự hài lòng và cám ơn sự hợp tác của Việt Nam. Đây không còn là một vấn đề gây khó khăn cho bang giao Việt-Mỹ như trong quá khứ và sẽ giảm dần tính cách quan trọng.
Việt Nam cũng đã yêu cầu Mỹ giúp tìm kiếm quân nhân Việt Nam mất tích trong chiến tranh (con số có thể lên đến nhiều trăm ngàn) và muốn Mỹ nhận “trách nhiệm tinh thần” đối với nạn nhân của chất độc da cam mà Mỹ giải ở Việt Nam trong thời chiến, tuy chính phủ Việt Nam chưa bao giờ đòi Mỹ phải bồi thường tổn hại. Lập trường hiện nay của chính phủ Mỹ là không có bằng chứng nào cho thấy có một liên hệ trực tiếp giữa chất dioxin và các bệnh trạng của những người trước kia sống trong vùng bị giải chất khai quang này. Cuối tháng 1/2004 ba nạn nhân Việt Nam bắt đầu thủ tục khởi tố 10 công ty Mỹ tại tòa án quản hạt Brooklyn, New York. Liên tiếp trong hai tháng 7 và 8/2004 Việt Nam, với sự cộng tác của một số cựu chiến binh Mỹ, đã phát động chiến dịch kêu gọi “nhân dân Mỹ” tỏ cảm tình và ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam. Chiến dịch này cần phải được thi hành một cách khéo léo, nếu không có thể mắc vào trường hợp “già néo đứt giây” như trường hợp điều đình bình thường hóa quan hệ ngoại giao trong nhưng năm ngay sau khi chiến tranh chấm dứt.
Một mối quan tâm nhân đạo khác của Việt Nam là sự hiện diện của đạn chưa nổ (unexploded ordnance) trên lãnh thổ Việt Nam. Giới quân sự Việt Nam ước tính có từ 350 đến 850 nghìn tấn đạn chưa nổ và 3 triệu mìn chôn rải rác trên lãnh thổ Việt Nam. Tháng 2/ 2003, Sáng hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ ký với Bộ Quốc Phòng Việt Nam một thỏa ước để vẽ bản đồ các đạn dược chưa nổ nhằm giúp Việt Nam biết rõ vị trí mìn và đạn chưa nổ trong các tỉnh có nhiều vấn đề nhất là Quảng Bình, Quảng Trị và Hà Tĩnh.

4. Vấn đề nhân quyền
Đây là vấn đề nổi cộm nhất trong mối quan hệ Việt-Mỹ. Vì lý do an ninh, Việt Nam đàn áp và bắt giữ các thành phần đối lập chính trị và tôn giáo. Hạ Viện Mỹ đã biểu quyết dự luật nhân quyền chỉ trích hành vi xâm phạm tư do chính trị và tôn giáo của chính phủ Việt Nam. Đầu năm nay, phúc trình về “Tình hình nhân quyền” của bộ Ngoại Giao Mỹ cũng phàn nàn về những vi phạm quyền tự do ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng, và quyền tự do lập hội ở Việt Nam đồng thời đả kích chính quyền Việt Nam giam giữ các phần từ chống đối chính trị và tôn giáo. Chính quyền Mỹ một mặt thì chỉ trích Việt Nam xâm phạm nhân quyền, nhưng mặt khác vẫn cố gắng chống lại áp lực đòi chỉ định Việt Nam như một “quốc gia phải quan tâm” dưới đạo luật về quyền tự do tôn giáo thế giới và do đó có thể phải áp dụng biện phái chế tài đối với nước này. Việt Nam phản ứng bằng cách lên án phúc trình nhân quyền của bộ Ngoại Giao và dự luật nhân quyền cho Việt Nam của Hạ viện Mỹ là những hành động can thiệp vào nội bộ Việt Nam và làm hại cho mối giao hảo giữa hai nước.
Dù đây là một vấn đề gây ra nhức nhối cho Việt Nam, trong một tương lai có thể thấy được nó sẽ vẫn còn đó và Việt Nam có lẽ sẽ phải tìm cách thích ứng với nó, và tránh không để mâu thuẫn trong vấn đề này làm cản trở tiến bộ trong các lãnh vực bang giao khác giữa hai nước.
Có nhiều lý do khiến chính phủ Hoa Kỳ phải làm áp lực Việt Nam trong vấn đề nhân quyền. Thứ nhất, chính phủ Mỹ phải đáp ứng với những đòi hỏi của Quốc Hội, các cơ quan công quyền lập ra để theo rõi những vi phạm nhân quyền (như Ủy Ban về quyền Tự do Tôn giáo trên Thế giới), và các tổ chức phi chính phủ quan tâm đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam (như Human Rights Watch, và các tổ chức của người Mỹ gốc Việt). Thứ hai, luật pháp Mỹ đòi hỏi bộ Ngoại Giao mỗi năm phải nộp phúc trình về tình trạng nhân quyền tại nhiều nước trên thế giới. Vì thế, Sứ quán Mỹ tại Việt Nam không có chọn lựa nào khác hơn là phải phúc trình về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam đồng thời cố gắng vận động với chính phủ sở tại để tình trạng nhân quyền ở đó mỗi năm một sáng sủa hơn. Sau hết, như đai sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, ông Burghart, đã phát biểu trong bài diễn văn đọc tại Asia Society ngày 21/1/2003, nhân quyền là một “vấn đề mà dân chúng Mỹ thật sự hết sức quan tâm đến. Đây không phải là một âm mưu mờ ám nhằm gây ra ‘diễn biến hòa bình’ mà chỉ là sự biểu thị của lịch sử và đặc tính của người Mỹ.”

5. Vấn đề người Mỹ gốc Việt.
Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ được tiềm năng đóng góp của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong việc xây dựng quốc gia, tăng uy thế và làm hậu thuẫn cho Việt Nam trong các vận động quốc tế. Nhưng họ cũng buồn phiền và bối rối trước các hoạt động chống đối, nhất là đối với tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, của các nhóm người Mỹ gốc Việt, đôi khi gây thêm căng thẳng trong bang giao Việt Mỹ. Gần đây, việc vận động để các quận hạt và ngay cả một vài tiểu bang Mỹ công nhận lá cờ cũ của Việt Nam Cộng Hòa như biểu tượng cho di sản của người Mỹ gốc Việt đã gây nhức nhối không ít cho nhà cầm quyền Việt Nam.
Trong bang giao Việt-Mỹ, cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ có thể là một vấn đề khó khăn cho nhà cầm quyền Việt Nam, nhưng họ cũng có thể là một nguồn hậu thuẫn tiềm tàng cho Việt Nam trong mọi khía cạnh của bang giao Việt-Mỹ, từ chính trị, nhân quyền đến đầu tư và viện trợ kinh tế. Muốn có sự ủng hộ của họ, chính quyền Việt Nam cần phải có môt chính sách can đảm, vượt lên trên những lời tuyên bố trống rỗng, những nghị quyết nửa chừng, để đưa ra những biện pháp táo bạo nhằm giải tỏa sự phân chia quốc-cộng kéo dài suốt 80 năm qua và đang gây trở ngại cho tình đoàn kết và sự hòa giải dân tộc thật sư.

6. Quan hệ chiến lược
Quan hệ quân sự và chiến lược là vấn đề tế nhị và nhạy cảm nhất trong mối bang giao Việt-Mỹ. Đối với Mỹ, Việt Nam không còn chiếm vị trí chiến lược quan trọng như trong thời chiến tranh lạnh. Tuy Việt Nam chỉ có một vai trò khiêm tốn trong chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ, nhất là sau biến cố ngày 9/11/2001, nói chung chính phủ Mỹ vẫn muốn cải thiện mối liên hệ quân sự giữa hai nước. Trở ngại chính cho việc cải thiện mối quan hệ quân sự Việt-Mỹ là sự cách biệt giữa quan điểm của Mỹ về tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam (thấp) và quan điểm của chính Việt Nam về tầm quan trọng của mình (cao). Một mối quan hệ quân sự lành mạnh không thể xây dựng trên sự cách biệt quan điểm như kể trên. Hiện nay, có hai yếu tố có ảnh hưởng quyết định đối với mối liên hệ chiến lược giữa hai nước: sự nghi ngờ của Việt Nam đối với ý định của Mỹ và yếu tố Trung Quốc.
Việt Nam nghi ngờ ý định của Mỹ
Rõ ràng là Việt Nam e ngại, nếu không nói là bất bình trước ảnh hưởng hay sự can thiệp của Mỹ vào chuyện mà Việt Nam coi là vấn đề nội bộ của mình, những can thiệp mà Việt Nam coi như có nguy cơ đưa đến “diễn biến hòa bình,” “thay đổi chế độ”, hay tình trạng “mất chủ quyền.” Với thời gian, khi tình hình Việt Nam đã ổn định, khi chính quyền Việt Nam tự tin hơn thì bang giao giữa hai nước tự nhiên sẽ được cải thiện. Vấn đề đặt ra là: ngay bây giờ, vì quyền lợi của chính mình, liệu Việt Nam có nên đẩy mạnh tiến trình cải thiện bang giao quân sự giữa hai nước hay không"

Trong khi chính phủ Mỹ, vì luật lệ đòi hỏi, vì áp lực của Quốc Hội và của các nhóm quyền lợi ở trong nước (kể cả những người Mỹ gốc Việt), và vì bản chất của chế độ chính trị Hoa Kỳ, luôn luôn phải quan tâm và muốn cổ võ cho nhân quyền và tiến trình dân chủ hóa, nhưng họ không có lợi gì trong việc lật đổ chính quyền Việt Nam. Môt khi nhà cầm quyền Việt Nam hiểu được rằng tại Mỹ “chính trị bắt nguồn từ nhu cầu tranh cử địa phương” và chính quyền liên bang Mỹ ít có khả năng ảnh hưởng đến những vấn đề của địa phương, và biết chú tâm đến khung cảnh lớn thì họ sẽ bớt nhạy cảm trước những vấn đề thứ yếu và trở nên thoải mái và đối phó hữu hiệu hơn với những quan tâm của Mỹ.
Đành rằng đôi lúc người Mỹ có thể hành động một cách thiếu tế nhị và kiêu căng, nhưng với bản chất thiếu kiên nhẫn của công luận Hoa Kỳ, chế độ kiểm soát hỗ tương giữa các cơ quan công quyền, các cuộc bầu cử thường xuyên ở Hoa Kỳ, và chiều hướng chính trị quốc tế ngày nay, Mỹ không có ý định mà cũng không có khả năng theo đuổi chính sách đế quốc trong một thời gian dài. Việt Nam không cần phải sợ tham vọng đế quốc của Hoa Kỳ.
Yếu tố Trung Quốc
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến việc cải thiện bang giao Việt-Mỹ là Việt Nam không muốn làm mếch lòng Trung Quốc, trong khi đó thì Mỹ tương đối có nhiều tự do chọn lựa hơn.
Một số các học giả và chiến lược gia Hoa Kỳ lo ngại Trung Quốc có thể trở thành địch thủ của Hoa Kỳ trong tương lai, đã đề nghị Hoa Kỳ phải tìm cách quân bằng thế lực đang lên của Trung Quốc tại Á châu. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam là một trong số các quốc gia có thể đóng vai trò hữu ích trong chiến lược của Hoa Kỳ. Nhưng, Ngoại trưởng Mỹ, Colin Powell, gần đây đã tuyên bố rằng không có gì “không tránh được” trong mối bang giao Hoa-Mỹ, nó tùy thuộc vào việc hai quốc gia muốn gì trong mối bang giao ấy. Những người bi quan về tương lai quan hệ Hoa-Mỹ có thể đúng nếu Trung Quốc tiếp tục duy trì chế độ cộng sản và theo đuổi một ý thức hệ đối nghịch với những giá trị của Mỹ. Nhưng, ngược lại, cũng có thể Trung Quốc sẽ tiếp tục cải tổ, đi dần đến chỗ bỏ hẳn ý thức hệ cộng sản trong lý thuyết cũng như trong thực tế. Trong trường hợp đó, không có lý do gì khiến Mỹ phải đối đầu với Trung Quốc. Giữa hai nước ấy có thể có bất đồng ý kiến và tranh chấp, nhưng sẽ không có thù nghịch và chiến tranh. Trong trường hợp ấy, Mỹ không có nhu cầu phải tìm đối lực với Trung Quốc; hòa bình và ổn cố ở Á châu có thể đươc bảo đảm bởi sự cộng tác giữa hai nước trong thế đồng lãnh đạo, và mối bang giao Việt-Mỹ sẽ tiếp tục phải đóng vai thứ yếu trong mối quan hệ Mỹ-Hoa.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc luôn luôn là một đe dọa tiềm tàng, một căn nguyên của tâm trạng bất an ninh. Trung Quốc đã thắt buộc Việt Nam vào một mớ liên hệ chằng chịt trên mọi bình diện --từ kinh tế, văn hóa, sang chính trị, ý thức hệ đến quân sự, và ở mọi cấp –từ tỉnh với tỉnh, nhà nước với nhà nước, đảng với đảng, tổ chức quần chúng với tổ chức quần chúng. Những mối liên hệ này đôi khi có thể làm cho Việt Nam nghẹt thở.
Mối quan tâm trung hạn của Việt Nam là tranh chấp chủ quyền tại Trường Sa và khả năng Trung Quốc chế ngự vùng biển Đông. Nếu điều này xảy ra, Việt Nam sẽ vĩnh viễn sống dưới cái bóng của Trung Quốc, một viễn tượng không có gì là vui vẻ, nhất là khi Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì chế độ độc tài. Lúc ấy, thì Nhật Bản, Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á và ngay cả Liên Hiệp Âu Châu nữa, chẳng ai có thể là đối thủ của Trung Quốc. Chỉ Hoa Kỳ mới có khả năng ngăn chặn không cho điều này xảy ra mà thôi.
Thử đặt câu hỏi là, trong lúc này, nếu Trung Quốc chiếm thêm một hòn đảo nào trong quần đảo Trường Sa, nước Mỹ sẽ phản ứng ra sao" Câu trả lời là, có lẽ Mỹ sẽ chẳng làm gì hơn là đưa ra một lời phản đối. Trong khi đó, dường như Trung Quốc đang tìm cách chia rẽ tình đoàn kết ASEAN để giải quyết vấn đề trên căn bản mặc cả song phương.
Cuối tháng 8 năm ngoái, trong chuyến viếng thăm Phi Luật Tân, Chủ Tịch Quốc Hội Trung Quốc Ngô Bang Quốc đề nghị với các nhà lãnh đạo lập pháp Phi rằng hai nước tạm gạt ra một bên tranh chấp về vấn đề chủ quyền để hợp tác trong việc khai thác các tài nguyên trong vùng Trường Sa. Đồng thời cũng có tin là một công ty dầu hỏa Trung Quốc có thể đến Phi Luật Tân để để nghị một dư án khai thác chung. Đầu tháng 9 năm nay, nhân chuyến công du Trung Quốc của Tổng Thống Phi Gloria Arroyo, hai bên đã ký thỏa ước theo đó các công ty dầu hỏa nhà nước của hai quốc gia sẽ hợp tác trong ba năm để thăm dò các tài nguyên dầu hỏa trong quần đảo Trường Sa. Nếu Trung Quốc đạt được thỏa thuận loại ấy với Phi thì Mã Lai Á có thể cũng làm theo. Việt Nam, cũng như Trung Quốc, tuyên bố mình có chủ quyền trên toàn thể quần đảo Trường Sa và vùng biển kế cận. Việt Nam hiện chiếm được một số đảo lớn cho nên hẳn không muốn chấp nhận đề nghị khai thác chung của Trung Quốc, nhưng chính sách “chia để trị” và “tầm ăn gửi” Trung Quốc có thể cô lập hóa Việt Nam và đẩy Việt Nam vào một thế khó khăn. Liệu Việt Nam có phải quan tâm đến viễn tượng này và tìm giải pháp đối phó trước khi quá muộn"
Trong khi việc Trung Quốc kiểm soát được quần đảo Trường Sa và chế ngự được vùng biển phía nam Trung Quốc có ảnh hưởng tai hại cho quyền lợi chiến lược của Mỹ, nhưng trong tình thế hiện nay, người ta khó có thể tưởng tượng Mỹ sẽ tuyên chiến với Trung Quốc nếu Trung Quốc cứ chiếm dần từng hòn đảo một. Lý do dản dị nhất chính quyền Mỹ có thể đưa ra để tránh không phải hành động là cho rằng đó là xung đột giữa “các nước cộng sản anh em.” Nhưng Mỹ sẽ hành động khác hẳn nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan.

Bài học Đài Loan
Cuối thập niên 1970’s chính quyền Carter giảm mọi liên lạc với Đài Loan và gần như bỏ rơi đảo quốc này. Người Mỹ chê chế độ Đài Loan độc tài và tham nhũng. Cải tổ chính trị đã biến Đài Loan thành một chế độ dân chủ, do đó khiến lập luận của những người chống Đài Loan ở Mỹ không đứng vững. Giữa Đài Loan và Trung Quốc là một khác biệt lớn lao: một bên là một chế độ dân chủ với một nền kinh tế vững mạnh của một quốc gia kỹ nghệ tiền phong, một bên là một chế độ độc tài với một nền kinh tế đang mở mang chưa thoát hoàn toàn khỏi những ràng buộc của xã hội chủ nghĩa. Sự khác biệt này làm cho sự chọn lựa của Mỹ trở thành hiển nhiên. Hiện nay, khuynh hướng ủng hộ Đài Loan là khuynh hướng trội yếu trong Quốc Hội cũng như trong quần chúng Mỹ. Đạo Luật về Đài Loan năm 1979 trở thành một dụng cụ tiện lợi để Mỹ lấy cớ bảo vệ Đài Loan khi nền an ninh của xứ này bị Trung Quốc đe dọa. Vì thế, ngay trong thời Clinton khi Trung Quốc được coi là một “cộng sự viên chiến lược” của Mỹ, chính phủ Mỹ đã cử một lực lượng hải quân lớn nhất kể từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào vùng biển Đài Loan để biểu dương lực lượng, cảnh cáo Trung Quốc khi nước này có hành động đe dọa Đài Loan nhân dịp nhân dân hòn đảo này đang chuẩn bị bàu cử Tổng Thống trong một cuộc bàu cử dân chủ và tự do nhất ở Đài Loan. Việt Nam không phải là Đài Loan, nhưng trường hợp Đài Loan có thể là một bài học hữu ích.
Hiện nay, so với Việt Nam, Mỹ có mối quan hệ quân sự quan trọng và mật thiết hơn đối với Trung Quốc. Chiến hạm Mỹ đã cập bến Trung Quốc nhiều lần và ngược lại. Hai bên đã trao đổi nhiều phái đoàn quân sự, các chiền lược gia Trung Quốc hàng năm được cấp học bổng sang nghiên cứu tại trường Đại học Quốc Phòng Mỹ, lãnh đạo chính trị hai quốc gia thăm viếng, gặp gỡ và trực tiếp thảo luận với nhau trên nhiều vấn đề quan tâm chung. Điều này chưa xảy ra trong quan hệ Việt-Mỹ.
Tuy nhiên, có vài chỉ dấu cho thấy mối quan hệ quân sự èo uột và đầy nghi kỵ giữa Việt Nam và Mỹ đang bắt đầu thay đổi. Ba diễn biến trong hai tháng cuối năm 2003 phản ánh sự thay đổi này. Diễn biến thứ nhất là chuyến thăm viếng chính thức của tướng Phạm Văn Trà, Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam, tại Mỹ từ 8/11 đến 12/11. Đây là lần đầu tiên kể từ khi cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, một nhà lãnh đạo quân sự cao cấp nhất của Việt Nam đặt chân lên đất Mỹ. Cuộc thăm viếng chính thức của tướng Trà đánh dấu một giai đoạn mới trong sự cộng tác trong lãnh vực quốc phòng đầy nhạy cảm giữa hai quốc gia từ xưa vốn thù nghịch nhau, đồng thời là một bước cuối cùng trong tiến trình phục hồi hoàn toàn mọi liên hệ giữa hai nước. Sau chuyến viếng thăm của tướng Trà việc là việc cập bến Sài Gòn của chiến hạm Vandegrift trong một cuộc thăm viếng thân hữu kéo dài 4 ngày. Đây là một cuộc viếng thăm có nhiều ý nghĩa tượng trưng vì đó là lần đầu tiên, 30 năm sau khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, các thủy thủ Mỹ đã trở lại Việt Nam trong tinh thần hòa bình và thân hữu. Diễn biến thứ ba là cuộc viếng thăm 9 ngày, qua 5 thành phố lớn của Mỹ, của một phái đoàn thương mại do Phó Thủ Tướng Việt Nam Vũ Khoan hướng dẫn nhằm mục đích mời chào các nhà đầu tư Mỹ, và để ông Khoan có dịp găp gỡ và thảo luận với lãnh đạo chính trị Mỹ hầu tìm ra các biện pháp thiết lập một cái “khung cho sự hợp tác bền vững và lâu dài” giữa Việt Nam và Mỹ.
Những diễn biến kể trên là kết quả của sự tính toán thực tiễn của các nhà lãnh đạo Việt Nam về vai trò mà Hoa Kỳ có thể đóng góp cho việc phát triển Việt Nam cũng như trong việc bảo về hòa bình và an ninh Á châu và Đông Nam Á. Trong một bài diễn văn đọc trước cuộc hội thảo Việt-Mỹ ở trường đại học Johns Hopkins ngày 2/10/2003, Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Dy Niên đã nhận xét như sau về vai trò của Mỹ:
“Ngày nay Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới, đóng một vai trò quan trọng và có ảnh hưởng lớn lao trong mọi khía cạnh của bang giao quốc tế ở cấp toàn cầu cũng như ở cấp khu vực. Mối liên hệ đặc biệt giữa Mỹ với các quốc gia Á Châu-Thái Bình Dương, nói chung, và với Đông Nam Á, nói riêng, đã có từ nhiều thế kỷ trước. Sự phát triển kỳ diệu của những tiểu long Đông Á không thể nào xảy ra nếu không có sự hợp tác của Mỹ.”
Tuy còn cần có nhiều cố gắng nữa mới có thể mang mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ lên tới mức độ của mối liên hệ Mỹ-Hoa, nhưng cái nhìn mới này của các nhà lãnh đạo Việt Nam là một triệu chứng tốt cho tương lai bang giao giữa hai nước.
Nguyễn Mạnh Hùng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạp chí Văn Học Mới số 5 dày 336 trang, in trên giấy vàng ngà, bìa tranh nghệ thuật của Nguyễn Đình Thuần, sáng tác từ hơn 50 nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo và phê bình nghệ thuật.- Văn Học Mới số 6 sẽ ấn hành vào tháng 3/2020, có chủ đề về nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn
Một tuyệt phẩm thi ca gồm những bài thơ dị thường chưa bao giờ xuất hiện bất cứ đâu, viết bởi một thi sĩ dị thường. Tựa: Tuệ Sỹ Ba ngôn ngữ: Việt - Anh - Nhật Dịch sang tiếng Anh: Nguyễn Phước Nguyên Dịch sang tiếng Nhật: G/s Bùi Chí Trung Biên tập: Đào Nguyên Dạ Thảo
Mùa thu là cơ hội bước sang trang mới khi nhiệt độ bắt đầu dịu lại. Trong mùa này, người dân California không cần mở điều hòa không khí lớn hết cỡ và cũng còn quá sớm để lo chạy máy sưởi.
Garden Grove xin mời cộng đồng tham gia chương trình đóng góp tặng quà cuối năm nhằm mang lại niềm vui, hy vọng và giúp đỡ cho những trẻ em địa phương không có quà trong mùa lễ Noel.
Ngồi niệm Phật miên man, dù cố tâm vào Phật hiệu nhưng hôm nay vẫn không sao “ nhập” được, đầu óc nó cứ văng vẳng lời anh nó lúc sáng: - Tu hú chứ tu gì mầy!
Một đường dây buôn người bán qua TQ do một phụ nữ Việt là nạn nhân buôn người trước đây tổ chức vừa bị phát hiện và bắt 2 người tại tỉnh Nghệ An, miền Trung Việt Nam, theo bản tin hôm 5 tháng 12 của Báo Dân Trí cho biết.
Điều trần luận tội đầu tiên của Ủy Ban Tư Pháp Hạ Viện đã nhanh chóng nổ ra cuộc đấu đá nội bộ đảng phái hôm Thứ Tư, 4 tháng 12 năm 2019, khi các nhà Dân Chủ cáo buộc rằng Tổng Thống Donald Trump phải bị truất phế khỏi chức vụ vì tranh thủ sự can thiệp của nước ngoài vào cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ và đảng Cộng Hòa giận dữ vặn lại không có căn cứ cho hành động quyết liệt như vậy.
Đó là cuộc khảo sát của công ty tài chánh WalletHub đối với 182 thành phố khắp Hoa Kỳ, để xếp thứ tự an toàn nhất cho tới bất an nhất. Cuộc nghiên cứu dựa trên 41 thước đo liên hệ tới an toàn
Cảnh sát đã bắn chết một người đàn ông cầm dao tại El Monte, Nam California hôm Thứ Hai.
Một phần thưởng 50,000 đô la được đưa ra để bắt một người đàn ông của thành phố Burnaby đã bị truy nã trước đây vì tội rửa tiền như một phần của nhóm tội phạm có tổ chức người Việt Nam hoạt động tại Canada và Hoa Kỳ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.