Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

22/03/200900:00:00(Xem: 3146)

Hồi ký: Thép Đen - Đặng Chí Bình

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.

*

Hôm nay nhất định tôi phải uống thuốc liều, tôi đã rủ anh chàng Gôm ra giếng tắm cho vui. Nhưng y đã giẫy nẩy lên, như con điả phải vôi, đầu lắc quầy quậy, miệng y liến thoắng:
- Không có một kẻ nào trên cái cõi đời này, lại bắt được tôi đi tắm bây giờ cả, trừ có hai điều.
Thấy Gôm cố ý nói nhăng để không tắm, tuy vậy tôi vẫn hỏi, trừ hai điều gì" Nằm cuộn tròn trong chăn, Gôm thò ra hai ngón tay:
- Ông Trần Quốc Hoàn (bộ trưởng bộ công an) bảo: Tên Gôm kia, hãy đi tắm rồi ta sẽ tha cho về Hà Nội.
Nói xong rồi Gôm trùm chăn kín đầu. Tôi đã xách gầu và quần áo định quay ra cửa. Tôi cũng chẳng lạ gì anh chàng Gôm này, nhưng cũng thấy phảng phất một chút băn khoăn, nên lại quay vào hỏi tiếp:
- Thế còn điều hai"
Gôm lại hất chăn xuống, lò mặt ra, mắt long lanh nhay nháy:
- Một cô em thơm như múi mít nỉ non: Anh Gôm của em ơi! Anh dậy đi tắm rửa cho sạch sẽ, anh yêu nhé!
Nhiều người ngồi, nằm gần đấy cười ầm cả lên, đều biết là anh chàng Gôm tếu. Tôi vừa xách gầu chạy xuống giếng vừa nghĩ: Tù đầy mãi, nhũn quắt cả ruột, lại còn mơ em, với mận chị gì nữa.
Phải nói, mỗi lần dội thùng nước giếng vào người, nó lạnh thấy bốc khói ở người lên. Lạnh quá, không ai dám tắm, một phần nữa vì tắm ở giữa trời, gió thổi hun hút không có gì che. Tôi lúi húi phơi bộ quần áo trại, vừa giặt xong ở chỗ đám dây phơi, phía đầu hội trường. Người còn đang run bần bật như cầy sấy, thì anh Lương Yên đã đi đến. Một tay anh đút trong túi áo, mặt anh khó đăm đăm, như anh đang có một điều ấm ức trong lòng. Anh nói hơi phì phào vì khoảng trống của 3 chiếc răng cửa hàm trên của anh bị thiếu:
- Anh ra hội trường, tôi gặp anh tí!
Gật đầu, bảo anh ra trước, tôi trở vào buồng lấy chiếc ruột áo bông khoác cho đỡ lạnh rồi sẽ ra sau. Chưa biết anh gặp tôi có chuyện gì, vừa đi vào buồng tôi vừa nghĩ về anh: Từ dạo anh chuyển ở trại Vĩnh Tiến về, trong lớp học tập “Lập công chuộc tội chống Mỹ cứu nước.” Sau khi tôi viết xong của tôi, tôi được cán bộ chỉ định, viết tường thuật cuộc đời cho hai người là anh Sín Dẩu, người Tầu, đẻ ở Việt Nam và anh Lương Yên, người Việt đã ở Sầm Nứa (Lào) hơn hai chục năm.
Hai anh đều đang theo học lớp 1 bổ túc văn hóa, nên không viết được. Viết tường thuật cuộc đời là kể lại chi tiết những diễn tiến của đời mình, từ nhỏ tới lớn cho đến khi vào tù. Chính vì thế tôi đã biết tường tận nhiều chi tiết, quãng đời đã qua của anh Lương Yên.
Sơ lược thì đời anh như thế này. Do nạn đói của năm Ất Dậu (1945), khi anh 24 hay 25 tuổi, anh phải tha phương cầu thực, lạc lõng sang Lào. Anh đi ở đợ, rồi làm công cho nhiều người Lào ở Sầm Nứa. Ba mươi tuổi đời, anh gặp một cô gái Việt, sinh đẻ ở Lào mới 20 tuổi, rồi nên duyên vợ chồng. Hai vợ chồng tuy nghèo khổ, nhưng sống hạnh phúc trong một khu lao động ở ngoại ô thị xã Sầm Nứa. Dù cảnh sống đầy gian chuân cực nhọc, nhiều tủi hờn trên xứ lạ quê người, nhưng hai người vẫn dắt díu, đùm bọc nhau để sống. Anh chị đã có 4 mặt con.
Năm 1963, lúc này ở Lào có rất nhiều phe phái chính trị. Có đại sứ của Sài Gòn và cũng có tòa đại sứ của Hà Nội. Hai bên đều dùng nhiều thủ đoạn tuyên truyền, để lôi kéo Việt kiều về với phe mình. Ngoài ra cũng đầy rẫy những lực lượng bí mật, gây sức ép trong giới Việt kiều để tranh giành ảnh hưởng. Một lần có 2 người Việt Nam đến nhà thăm vợ chồng anh. Họ tự giới thiệu là cán bộ cụ Hồ, của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Chấp hành đường lối thương yêu dân, như con của cụ Hồ, nước nhà ngày nay đã độc lập; khắp cả nước đâu đâu cũng chỉ có tiếng hát, nụ cười, cụ Hồ nghĩ đến những người con phải lưu lạc, xa quê hương, tổ quốc. Cụ muốn tuyển chọn một số Việt kiều, thành phần cốt cán như gia đình của Lương Yên. Nhà nước sẽ đài thọ hết phí tổn, để đưa kiều bào về tham quan tổ quốc.
Những kiều bào nào được tuyển chọn, khi về nước sẽ được học tập đường lối mới, của một nước nhà độc lập; niềm tự hào, kiêu hãnh của mọi người dân. Sau khi biết được thời gian về thăm quê hương sẽ tùy theo ý của mỗi người, có thể dăm ba tháng rồi trở lại đón vợ con cùng về nước hoặc ở lại Lào là do mình quyết định. Hơn nữa, ai xa quê hương mà chả nặng lòng với đất nước, nên cuối cùng anh đã nghe theo họ về nước vì anh nghĩ: Đây cũng là dịp anh về chơi thăm quê nhà, sau mấy chục năm trường xa vắng.
Khi đi qua khỏi biên giới Lào Việt, thái độ của hai tên cán bộ đã khác hẳn. Lạnh lùng và hình như anh cảm thấy mình bị quản chế. Họ ra lệnh cho anh không được tự tiện, đi lang thang ra ngoài. Anh vô cùng lo lắng, anh hỏi họ thì được trả lời:
- Cứ đi rồi sẽ biết!
Cuối cùng họ đã đưa tuột anh vào Hỏa Lò Hà Nội. Hàng ngày phải đi khai cung, họ truy hỏi, gán ghép cho anh là CIA, là chỉ điểm cho Sài Gòn. Họ bắt anh khai ra hiện nay vũ khí là khẩu súng ngắn giấu ở chỗ nào trong nhà v.v…
Đến đây anh Lương Yên mới ngã ngửa người ra. Nhớ lại, đầu năm ngoái, một lần anh đi khuân vác hàng cho một chiếc xe vận tải, anh đã vớ được một khẩu súng lục, không biết của ai để rơi trong một góc xe. Táy máy, thấy của hiếm, anh đã mang về nhà cất đi. Mấy tháng sau, một lần vợ chồng cãi nhau, anh lại quá chén nên say, đã vào buồng lấy khẩu súng ra dọa vợ, rồi lại cất đi.
Mãi gần Tết vừa rồi, nhà túng bấn quá, anh đã gạ bán khẩu súng đó cho một ông chủ hiệu tạp hóa người Lào, ngay gần nhà anh với giá rẻ mạt là 200 đồng kít. Ông chủ hiệu tạp hóa đã biết rõ vợ con, nhà cửa của anh Lương Yên nên mới mua để phòng thân, giữ của.
Vì đây là một chuyện thực nên anh khai hết đầu đuôi. Chắc hẳn, sau khi anh khai báo, Cộng Sản đã đến tận nhà ông chủ hiệu người Lào để xác minh. Khi họ đã biết rõ sự thật, nhất là anh Yên trình độ lại không biết đọc, biết viết. Nhưng đã trót bắt lầm anh rồi, đâu có thể thả trở lại Lào được nữa. Một cái lưỡi sống sẽ làm mất chính trị biết bao nhiêu, trong cái đám kiều bào vẫn còn lơ ngơ chưa tin hẳn vào cụ Hồ và cách mạng. Bởi vậy, một mặt cứ vờ quả quyết Lương Yên đã làm chỉ điểm cho Sài Gòn mà không chịu khai báo; mặt khác, tống Yên lên trại cải tạo, với cái lệnh tập trung thì đảng có mất mát cái quái gì đâu.
Vì tội trạng của Lương Yên như thế, nên ở trại Vĩnh Tiến cũng như trại này, sau hơn một tháng đến trại, là anh được cho làm tự giác quét dọn, vệ sinh ở trong trại. Tự giác của Lương Yên ở đây là buổi sáng cũng như buổi chiều, anh phải quét dọn sạch sẽ trong toàn trại. Sáng một lần, chiều một lần được gánh cái rác bẩn đó ra một chỗ quy định, bên ngoài trại để đổ. Mặc dù mỗi lần ra vào cổng trại, đều phải báo cáo với công an vũ trang gác cổng.
Anh Lương Yên rất hiền lành tử tế, nhiều khi nghĩ đến anh tôi thật mủi lòng. Tôi hiểu rằng, anh đã ở tù 7 năm rồi, đã hơn 2 cái lệnh tập trung, nhưng cái tội của anh lại không thể tha được. Anh đã mang cái tội mà dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt, không ít người mắc phải. Đó là cái tội “Bị bắt lầm.” Nếu thả anh về Lào bây giờ, về chính trị hại cho chế độ gấp trăm lần hơn là giam anh. Giam anh, thì chỉ có một gia đình anh bị thiệt. Vợ mất chồng, con mất cha và đời anh sẽ chết dần ở trong tù. Càng giam giữ lâu, thì lại càng không thả được nữa.
Tôi ra đến hội trường, rải rác đây đó, một số người ngồi chuyện trò hay khâu vá, anh Lương Yên ngồi mãi trong một góc khuất phía cuối. Thận trọng, liếc nhìn chung quanh, anh rút trong túi ra một cái phong bì đã bị bóc mất tem và một lá thư đã bị xé làm nhiều mảnh. Giấy đã nhầu nát, vàng khè, nhiều chỗ chữ đã nhòe nhoẹt. Tôi hơi chột dạ, cầm vội mấy mảnh thư lên coi, vì rõ ràng đây là nét chữ của tôi; nhưng tôi đã chợt hiểu. Đây là lá thư anh Yên gửi về cho vợ con anh ở bên Lào mà tôi đã viết hộ anh, hơn 3 tháng trước.
Với nét mặt rầu rầu, tuy anh Yên nói nhỏ, nhưng giọng anh đầy uất hận:
- Sáng nay tôi ra đổ rác ở chổ cái hủng đất mọi khi. Lúc tôi cào cho đống rác cho gọn lại, thoáng nhìn thấy cái mầu phong bì giống mầu phong bì của tôi và khi cầm lên, thì rõ ràng là nét chữ của anh nên tôi đã lục tìm, moi móc nhặt hết về.


Nhìn mặt anh buồn rười rượi. Nhớ lại, tôi đã viết hộ anh cả thẩy 3 lá thư, từ khi anh về trại này hơn một năm rồi. Do lòng "nhân đạo" của đảng và nhà nước, chiếu cố đến tình cảm gia đình của mỗi phạm nhân, nhà nước quy định cho mỗi người tù, được gửi thư về gia đình mỗi tháng một lần. Do đấy, cứ vào mồng một mỗi đầu tháng, mọi người trong toán nộp thư cho toán trưởng, rồi toán trưởng đưa nộp thư cho cán bộ của toán. Thư không được dán, để cho cán bộ duyệt. Đầu tiên là cán bộ toán duyệt rồi đưa lên cho ban giáo dục duyệt lại một lần nữa.
Hoàn cảnh của anh Yên cũng thật ái ngại. Anh không có tiền, lại hiền lành chậm chạp, không có tài xoay sở, cho nên cứ ba bốn tháng anh mới gửi thư một lần. Bởi vì mỗi lần anh gửi một lá thư anh phải nhịn ăn sáng 3 ngày. Một suất sáng để đổi lấy phong bì và giấy, một suất để đổi lấy con tem và một suất sáng tặng cho người mà anh nhờ viết hộ lá thư.
Nhớ lại năm ngoái, lần đầu tiên tôi viết hộ lá thư cho anh. Anh đưa ra một cái túi vải, trong có một suất sắn sáng, anh có nhã ý mời tôi ăn. Tuy tôi vẫn đói, nhưng tôi hiểu đó là phần sắn buổi sáng của anh, anh phải nhịn, vì thế tôi từ chối không ăn. Anh cứ nằn nì mãi, để tôi phải đứng dậy nói dứt khoát: Nếu vậy tôi sẽ không biết hộ thư cho anh nữa, bấy giờ anh mới chịu. Chậm chạp, anh móc trong túi áo ra một lá thư của vợ anh. Theo anh, đây cũng là lá thư đầu tiên và duy nhất sau gần 7 năm anh về thăm tổ quốc, quê hương yêu dấu. Hơn 3 năm xưa anh đã nhận được, khi còn ở trại tù Vĩnh Tiến. Tôi cầm lá thư đã nhầu nát, do thời gian và có thể do đã không biết bao lần anh mở ra “đọc” nó.
Nét chữ nguệch ngoạc, lời thư của một người vợ với một đàn 3 đứa con dại, ngày đêm thương nhớ chồng. Những giòng chữ mộc mạc, chân chất với nỗi khắc khoải của những đêm dài vời vợi nhớ thương, làm cho lòng tôi cũng xốn xang, vơi đầy. Người chồng đã ra đi biền biệt mãi không về, bỏ lại một đàn con dại với người vợ trẻ. Chị đã phải nai lưng ra làm thuê, làm mướn. Phải chịu bao nhiêu đắng cay, tủi cực, chồng chất lên nỗi nhớ thương chồng, thương con và thương mình, đêm ngày đầy vơi, ngơ ngác giữa cuộc đời.
Vì muốn trung thực trình bầy rõ những nỗi nhớ, niềm thương của anh với vợ con anh, nên tôi phải gợi hỏi anh từng chi tiết, cụ thể. Làm sao tôi quên được, cứ mỗi lần ngồi viết thư cho anh, hình ảnh một người, nếu gọi bằng anh thì quá già, nhưng gọi bằng bác thì quá trẻ vì anh mới khoảng 45 hay 46. Thời gian và những thương đau chất chồng của đời, đã vạch hằn trên lên trán, lên mặt anh nhiều vết nhăn. Chẳng hiểu trong lòng anh đã chất chứa, nén đầy hình ảnh vợ anh, con anh ra sao mà suốt lúc tôi viết thư, môi anh cứ run run mấp máy, mắt anh thỉnh thoảng lại đỏ lên, có lúc tuôn dài hai giòng lệ. Thậm chí, có lần quá xúc động anh gục xuống đôi tay khoanh để trên bàn, vai cứ rung rung thổn thức, làm gián đoạn cả ý thư tôi đang viết. Những giọt nước mắt nhỏ xuống, cho vợ con anh hay cho đời anh" Của một kiếp người! Ai đã vùi dập, chia cắt gia đình anh"
Tôi mần mò ghép lại lá thư bị xé, để đọc lại. Lá thư không hề nói một tí gì về chính trị. Hoàn toàn chỉ là tình cảm, nỗi nhớ thuơng vợ chồng con cái. Tôi chợt hiểu, chính cái nhớ thương này, nhớ thương thì phải buồn, phải sầu, đấy là lý do lá thư bị xé. Người xé thư, cũng không quên lấy lại con tem.
Sau một hồi suy lý, tôi bàn với anh Yên, cái mục đích chính là làm sao cho chị nhận được thư của anh, để cho lòng của chị ấy đỡ khắc khoải đêm ngày. Vậy lá thư, chỉ cần viết sự nhớ nhung bình thường mà phải nói đến vui chơi, học tập tiến bộ, khỏe mạnh, miệt mài hăng say công tác, nỗ lực cùng toàn dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược v.v…
Chung quy, đã lại rơi vào cái bẫy của Cộng Sản, dù hiểu chúng hay không hiểu chúng. Nghĩa là, chúng ta đã tự nguyện, tuyên truyền đắc lực không công cho chúng. Tôi cứ hình dung những người có trách nhiệm tuyên truyền của Sài Gòn ở Lào. Phần vì mãi hưởng lạc, hời hợt không có một kế hoạch tỉ mỉ, sâu sắc để lôi kéo lòng người. Phần khác, người ta không tin ai bằng tin người nhà của người ta cả. Chồng người ta, con người ta, họ sẽ tin hơn. Đây, lá thư của chồng người ta đã viết rành rành ra đây. Vậy mà bảo Cộng Sản xấu sao được. Một đồn mười, mười đồn trăm, cán bộ Sài Gòn nào mà tuyên truyền lại được"
Như thế, anh em tù nhân cứ viết thư, cán bộ cứ nhận thư, rồi gửi hay xé đi là tùy theo lá thư. Vậy nếu anh không tự hiểu, anh cứ viết đi theo kiểu của anh, rồi dài cổ ra mà ngóng thư trả lời.

Chương 44: Chuyển Về Trại Chính

Tháng 3/1970. Lúc này, về nghề mộc, "ơn đảng và bác" đã dạy cho tôi biết làm giường, bàn, tủ, ghế. Tôi đã trở thành một người thợ mộc chính dù chưa thể làm được những hàng mộc kỹ thuật, cao cấp như tổ kỹ thuật của Đinh Sơn.
Vì Mỹ đã thẳng thắn tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc và hẳn do những yêu cầu mới nào đó, trại rục rịch sẽ chuyển tù về trại xây, trại chính. Lê Văn Kinh, Nguyễn Văn Thú, Nguyễn Văn Bắc, tôi và một số người nữa được tách ra thành một nhóm theo bác Cát để tập làm nhà. Bác Cát đã có tay nghề 15 năm làm nhà, dựng nhà ở miền Bắc. Bác bị bắt vì tội hoạt động trong đảng Liên Xã (Liên Minh Xã Hội) trong vùng Việt Trì, Phú Thọ. Bác bị bắt từ năm 1958.
Hàng ngày chúng tôi đi theo bác để tập làm nhà. Làm nhà, tuy không luôn chân, luôn tay như làm mộc, nhưng rất nặng nhọc vất vả. Trời nắng hay trời mưa cứ phải phơi mặt ra ngoài sân. Hôm nay tôi phải tranh thủ, lén lút làm cho bác Tiến cái gối bằng gỗ. Cái kiểu gối giống như hình chữ nhân (X) để gối về mùa Hè cho nó mát. Thấy cái gối bác đang gối bằng một đoạn gỗ lim nặng chịch, tôi muốn làm tặng cho bác một cái gối kiểu mới mà không cho bác biết trước. Khâu làm đã phải lén lút che giấu, khâu đưa vào trại cũng không phải là dễ. Với người khác thì khó thật, nhưng như tôi đã trình bầy ở trên, tên Tân trật tự kỳ này rất biết điều với tôi. Thường thường mỗi khi toán về đến cổng trại, lúc y khám, vuốt, mò vào bụng, mò vào lưng tôi, thấy trà hay cái gi vi phạm nội quy, y nhìn tôi một cái như muốn nói “tôi bỏ qua đấy nhé” rồi y tiếp tục khám người khác. Vì vậy tôi tin tôi có thể mang chiếc gối về trại cho bác được.
Nhớ lại lúc giao thừa đêm trừ tịch của ngày Tết vừa qua. Giữa lúc chiếc loa treo ở trên cửa buồng, tên Tôn Đức Thắng đang phều phào đọc bản diễn văn chúc Tết thì bác Tiến bò nhỏm dậy. Bác thò tay sang màn tôi, đập vai gọi tôi dậy. Chẳng biết bác đã chuẩn bị từ bao giờ, bác rút trong túi áo ra một chiếc khăn mặt còn mới tinh. Một tay bác đưa chiếc khăn cho tôi, một tay bác đặt lên vai tôi, bác nói như thâm tình nhắn nhủ:
- Cháu Bình, đây là chiếc khăn mặt bác đã ủ trong người hàng tháng nay. Nhân dịp ngày Tết cổ truyền từ ngàn đời, linh thiêng của dân tộc, bác tặng cháu, để chuyển nhượng, để gửi gấm cho cháu những hoài bão mà bác còn đang làm dang dở cho quê hương. Thế hệ của bác đã về chiều tối rồi, nhiều việc bác không thể còn mà làm được nữa. Qua một số ngày bác trao đổi với cháu, bác tin tưởng rồi đây cháu sẽ phải làm được một cái gì cho đất nước, cho giống nòi.
Tôi thấy lòng xốn xang, bàng hoàng. Một nỗi sầu ray rứt, rỉ dần ra trong lòng tôi. Tôi là một tên vô danh tiểu tốt. Tôi đang bị sóng đời dìm vào đáy vực tăm tối, chẳng biết ngày mai, và cũng chưa biết sống chết lúc nào. Nhưng nhìn ánh mắt thiết tha trao gửi của bác, nhìn mái tóc đã trắng gần hết đầu, tôi đành nhận, nén chặt tiếng thở dài để cho bác vừa lòng. Tâm trạng của tôi như một người bị cụt chân, nhưng thấy một người già yếu đang ì ạch đẩy một chiếc xe bò lên dốc, lòng thì muốn ghé vai đẩy giúp mà khả năng không còn. Tôi cũng thông cảm với nỗi lòng của những người già, khi tuổi đã về chiều. Nhìn về phía trước, con đường còn dài ngút ngàn vời vợi mà gối đã mỏi, chân đã chồn và sức đã tàn, lực kiệt. Chắc rồi đây cũng lại sẽ đến lượt tôi, nếu như tôi không chết trẻ.
Từ dạo theo bác Cát tập làm nhà, để rộng chỗ đẽo và làm, và cũng tiện chỗ để cho trâu kéo gỗ từ rừng về, chúng tôi được ra thao tác, lao động ở một bãi đất trống ngay cạnh lán thủ công. Không ngờ, vị trí của cái bãi này thật là tuyệt vời. Xa xa khoảng nửa cây số là cùng, trên chỏm một ngọn đồi về phía Đông, có một cây tùng già to tướng. Không biết nó đã bao nhiêu tuổi, nhưng khắp vùng này chả có một cây nào to như nó. Mà cũng chỉ có nó là tùng mà thôi. Xa xưa chả biết ai đã trồng nó hay hạt giống từ một phương nào bay tới. Nó um tùm, kềnh càng ra rất nhiều cành làm tím thẫm cả một ngọn đồi. Cứ sáng nào cũng vậy, nhất là vào những hôm trời trong vắt, không một vẩn mây. Tôi vừa lao động, vừa chờ mảnh mặt trời từ phía bên kia đồi mò lên, để có 15 đến 20 phút, được ngắm, được nhìn, được ngây ngất với cái kỳ ảo của thiên nhiên, của núi rừng.
Hôm nay cũng vậy, sau trận mưa dài một ngày, một đêm, núi rừng cảnh vật như được cọ rửa, lau chùi như mới. Trời cao xanh thẳm, chéo mãi phía Tây vài vẩn mây gầy lởn vởn như sương khói. Làn gió hiu hiu làm đong đưa vài chiếc lá sồi non phía trước mặt. Cảnh núi rừng của một sáng cuối Xuân, đầu Hè thật êm ả lạ thường. Vài tiếng hót “cọt kẹt” của mấy con chim sâu trong khóm vi lan dại càng làm rõ cái vắng lặng quạnh hiu của cõi hồn.
Kia rồi! Mảnh mặt trời đỏ như một cục máu đã lấp ló dưới gốc của cây tùng phía đồi bên ấy. Vừa mới chăm chú để ý bác Cát chỉ cho cách làm một đầu của cái xà thượng vào một cây cột quân, thế mà mặt trời đã leo lên tới cái chỗ tôi đợi chờ rồi. Liếc nhìn tên Sỹ, cán bộ toán, tay y đang chỉ trỏ nói chuyện với bác Cát ở góc chiếc lều con. Tôi ném vội cả cái bướm lẫn dùi vào thùng đồ nghề. Vờ chạy lại chỗ đống lửa để hút điếu thuốc, nhưng mắt tôi đã hướng về phía cây tùng.
Lúc này vào khoảng 8 giờ. Mảnh mặt trời vừa chui vào cái chỗ nhiều cành lá rậm nhất của cây tùng. Trong cái đám xanh thẫm như một bức màn, từng chùm ánh sáng thọc xuyên qua những khe hở của cành lá, loe ra mọi hướng như lan quạt. Trông như những ánh đèn pha cực mạnh trong buổi tối trời. Chẳng hiểu nó phản xạ ra sao, chùm thì mầu tím hoàng hôn, chùm thì mầu xan cánh chả; chùm vàng như lúa chín, chùm đỏ, chùm hồng, có chùm tím ngắt như mầu mắt giai nhân.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.