Giảm Thiểu Việc Sử dụng Hoá chất Trong Nông Nghiệp
Mai Thanh Truyết
Trong tiến trính phát triển nông nghiệp đặc biệt tập trung cho việc xuất cảng gạo ở Việt Nam đã tạo nên một tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng cho vùng vựa lúa của Đồng bằng song Cửu Long (ĐBSCL). Cho đến nay, tình trạng trên ngày càng nghiêm trọng hơn và hiện tại là một vấn nạn cho vựa lúa của cả nước.
Với trên 39 triệu hecta đất nông nghiệp, chiếm 12% diện tích trồng trọt của Việt Nam, gấp ba lần diện tích của châu thổ sông Hồng miền Bắc. Thách thức của Việt Nam hiện tại là tận dụng và khai thác triệt để nguồn đất nầy trong phát triển nông nghiệp và ngư nghiệp như chăn nuôi tôn và cá…để tăng gia sản xuất cho nhu cầu gia tăng dân số và xuất khẩu.
Từ đó, diện tích trồng trọt cần phải phải tăng thêm thời vụ từ hai vụ mùa lên đến 3 vụ thậm chí thêm một vụ trồng hoa màu… Đất không được nghĩ ngơi để có thời gian tự tái tạo và đất cũng bị phủ chập quá tải phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật , để rồi ngày càng cằn cổi và có nhiều nguy cơ trở thành hoang hoá hay sa mạc hoá trong tương lai.
Đó là viễn tượng không mấy tốt đẹp của một miền đất phì nhiêu của miền Nam Kỳ ngày xưa. Do đó, chuyển hướng về sự phát triển nông nghiệp hiện tại phải là một việc làm cấp bách và dứt khoát cho những ngày sắp tới. Bài viết có mục đích gợi ý về các phương cách giảm thiểu việc sử dụng phân bón và hoá chất bảo vệ môi trường trong nông nghiệp.
Công nghệ phi-hoá học (nonchemical technology)
Giống cây trồng: Căn cứ vào luật di truyền, ngày nay khoa học gia có thể lai tạo những giống cây đặc biệt là lúa, lúa mì và bắp có nhiều khả năng kháng cự bịnh tật cao, chống lại côn trùng và cỏ dại, cùng cho ra năng suất cao trong lúc giảm thiểu được việc sử dụng phân bón và hoá chất bảo vệ môi trường. Đây là một tiến trình đúng đắn phù hợp với công nghệ xanh nhất là đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam vùa bảo vệ hệ sinh thái và vừa tăng gia sản xuất.
Nhân tố kiểm soát sinh học: Trong thiên nhiên, có nhiều loại côn trùng “chiến sĩ” (predator) có khả năng ăn các côn trùng khác , do đó cân bằng được hệ sinh thái trong khu vực trồng trọt. Khuynh hướng để giải quyết vần đề là mang các côn trùng “chiến sĩ” cấy vào vùng khai thác có nhiều côn trùng thích “khẩu” của côn trùng chiến sĩ.
Trước tiến trình toàn cầu hoa, mọi trao đổi thực phẩm trên thế giới đầu có nguy cơ mang một mầm bịnh hay côn trùng từ một nơi nầy qua nơi khác. Do đó, kiểm soát sinh học ũng là một biện pháp phòng vệ hữu hiệu.
Công nghệ sinh học: Trong vòng 20 năm cuối của thế kỷ 20, một cuộc cách mạng nông nghiệp đã mang lại rất nhiều thành tựcu hôm nay. Đó là công nghệ sinh học. Đây là một kỹ thuật dùng cơ thể sống (livings organisms) hay các chất trong cơ thể để biến chế thành một sản phẩm có khả năng làm tăng trưởng cây trồn hay động vật, hoặc khai triển các siêu sinh vật để áp dụng vào công nghệ chăn nuôi va trồng trọt.
Thành tựu của công nghệ nầy đem lại; nhiều lợi 1ich cho việc quản lý cây trồng và thứ vật nuôi:
• Tạo ra cây kháng bịnh qua việc cấy mô và kỹ thuật vi truyền (micropropagation);
• Khai triển việc chẩn đoán bịnh cũng như theo dõi dân số của côn trùng trong vùng khai thác;
• Sử dụng côn trùng chiến sĩ để diệt côn trùng phá hoại mùa màng;
• Lai tạo được nhiều giống có khả năng chống bịnh, chống côn trùng cao.
Côn trùng sinh học (biopesticides): Côn trùng sinh học được dùng cho các loại côn trùng chiến sĩ, nấm mốc, côn trùng ký sinh, hay vi khuẩn…đã được cấy thêm hoá chất thích hợp cho từng hệ sinh thái trồng trọt hay chăn nuối khác nhau. Một lợi điểm cho việc sử dụng nấm móc (fungi) chẳng hạn là để chữa trị rễ cây bị côn trùng xâm nhập, nơi mà việc dùng thuốc sát trùng thông thường không có khà năng đến tận nơi được vì nằn sâu trong đất.
Côn trùng sinh học được dùng nhiều nhất jiện nay là Bacillus thuringienses (Bt). Đây là một lạoi vi khuẩn có khả năng sản xuất ra một protein đặc biệt chống lại rất nhiều côn trùng thường thấy trong nông nghiệp. Một số chủng loại khác của Bt có khả năng tiêu diệt rầy lá (caterpillars) được áp dụng thành công ở Cuba và Ấn Độ.
Công nghệ di truyền: Công nghệ nầy tạp dựng ra các thế hệ thứ hai, ba…của cây trồng và thú vật. Nguyên lý nầy dực theo kỹ thuật ghép DNA di truyền vào một DNA khác giống khác để cho ra hiệu năng tối đa. Ngoài khả năng về năng suất, công nghệ nầy còn làm cho các thề hệ sau có khả năng chống côn trùng và bịnh tật rất cao.. Do đó việc dùng phân bón và hoá chất bảo vệ thực vật được giảm thiểu rất nhiều. Công nghệ nầy sẽ là một lối thoát về mặt phát triển lương thực cho các quốc gia đang phát triển.
Mai Thanh Truyết