Dù trên danh nghĩa Đảng Nhà Nước CS Hà Nội không thừa nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhứt, Thông tấn xã của Đảng Nhà nước CS Hà nội cũng phải loan tải sự mất mát lớn lao này, chỉ tránh né không nêu minh bạch chức danh Tăng Thống của Ngài và danh xưng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhứt mà Ngài là nhân vật lãnh đạo cao nhứt.
Còn hầu như tất các cơ quan truyền thông quốc tế của Anh như BBC; Pháp như RFI, AFP; Mỹnhư VOA, RFA, AP đều đi tin hàng đầu vì Ngài thực tế và thực sự đã trở thành vị lãnh đạo tinh thần và một nhân vật không những của VN mà còn của quốc tế nữa.
Xin lấy bản tin của Đài RFA tin tức VN bén nhậy, nhanh chóng và trung thực, làm thí dụ. "Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất sanh ngày 19 tháng 9 năm 1920, tại làng Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, thế danh Lê Đình Nhàn, vào năm 1932 mới 12 tuổi Ngài đã thụ giáo với Hòa thượng Vĩnh Khánh, được ban pháp danh Như An, pháp tự Giải Hòa và thọ sa-di giới năm 1935, thủ khoa trong tập chúng. Năm 1935-1937 : Do tư chất đặc biệt xuất chúng, mà Ngài được đặc cách miễn tuổi để thọ Tam đàn Cụ túc và Bồ tát giới vào năm 17 tuổi tại giới đàn chùa Hưng Khánh, thuộc quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định, do Hòa thượng Chí Bảo làm Đàn đầu. Kỳ sát hạch này Ngài đậu thủ khoa.Tháng 8 năm 1945, Ngài tham gia kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 5, giữ chức vụ Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Phật giáo Cứu quốc Liên khu 5. Do Ngài tổ chức cơ sở Phật giáo quy mô nên bị chính quyền cách mạng lâm thời nghi kỵ và theo dõi. Đầu năm 1951, ngài bị chính quyền Việt Minh bắt, an trí ở Phù Mỹ, rồi Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, tổng cộng 4 năm. Một tháng trước ngày đình chiến theo Hiệp định Genève (20.7.1954) Ngài được trả tự do.Năm 1955 đến 1957, Ngài làm Giám đốc Phật Học Đường Trung phần ở chùa Hải Đức, Nhatrang. Năm 1958 Ngài khai sáng Tu viện Nguyên Thiều, thành lập Phật học viện Nguyên Thiều do Ngài làm Giám viện cho đến ngày nay. Năm 1958 đến 1962, Ngài giữ chức Phó Hội Trưởng Hội Phật Học Trung Phần kiêm Hội trưởng Hội Phật giáo Thừa thiên - Huế, văn phòng đặt tại chùa Từ Đàm. Sau đó Ngài làm Hội Trưởng Hội Phật Giáo Bình Định. Đêm 20.8.1963, Ngài bị chính quyền miền Nam bắt giam cùng với hàng nghìn Tăng Ni. Sau chính biến 1.11.1963, Hoà Thượng được trả tự do. Ngày 3.3.1977, Ngài và Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng chư tôn đức Tăng, Ni, Phật tử phát động cao trào đòi hỏi Nhà nước Cộng sản hoàn trả tài sản của Giáo hội. Cuộc đấu tranh bị Nhà cầm quyền đàn áp.
Ngày 6.4.1977, Ngài Huyền Quang bị bắt và biệt giam tại Nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Quận Bình Thạnh ở Sàigòn. Ngày 10.12.1978 Nhà cầm quyền cộng sản đưa ngài ra Tòa, kêu án 2 năm tù treo và quản chế tại chỗ.Năm 1992, Đức Đệ Tam Tăng thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ. Hòa thượng Thích Nhật Liên, Trưởng tử của Môn đồ hiếu quyến Đức Đệ Tam Tăng thống, trao lại cho Ngài ấn tín Giáo hội và Di chúc của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu. Ngày 27.5.2008 vì bị yếu tim, dịch trong phổi nên Ngài phải vào bệnh viện Đa khoa Quy Nhơn. Tuần lễ đầu có chiều khả quan. Nhưng sau một thời gian y sĩ phát hiện thêm bệnh gan, thận yếu, và bị suy dinh dưỡng nên phải chuyển Ngài vào phòng cấp cứu nhiều tuần lễ. Sau một tháng hơn nằm viện, bệnh tình Ngài không mấy thuyên giảm, nên Ngài tỏ ý muốn về Tu viện Nguyên Thiều cho được thanh tịnh và nghe công phu sớm chiều. Đến 13 giờ chiều ngày mùng 5 tháng 7 năm 2008, Ngài Thích Huyền Quang viên tịch tại Tu viện Nguyên Thiều, thọ 89 tuổi."
Hoà Thượng Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, trước đó từ Saigon đã len lỏi đến Tu Viện Nguyền Thiều sớm thăm tối viếng, lo chạy chữa cho Ngài. Hầu hết những tăng ni Phật Tử đang trụ trì các chùa quốc nội, hải ngoại là những người tu học ở nhiều Phật Học Đường mà Ngài là Giám Viện hay quản trị đều tôn kính Hoà Thượng như bậc thầy. Chỉ một vài giờ sau tin Ngài viên tịch, các chùa khắp nơi trên thế giới được thông báo, bất kể ngày đêm ở địa phương, và tất cả tăng ni cung kính thiết lễ tụng kinh cho Ngài.
HT Huyền Quang, Đệ Tứ Tăng Thống, là một người bất khuất. Trong nguy cơ bị bắt giam thời Việt Minh, thời đệ nhứt công hoà và thời CS cũng như lúc Thủ Tương VC Phan văn Khải mời Ngài để thỉnh ý, tinh thần bất khuất vì đạo pháp và dân tộc của Ngài không thế lực nào lay chuyển được. Tài tổ chức của Ngài rất giỏi. Viễn kiến thời cuộc của Ngài rất sáng. Ngài đã dẫn dắt Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhứt qua những đoạn đường gay go, gian khô nhứt trong lịch sử VN. Tháng 8 năm 1945, Ngài tham gia kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 5, giữ chức vụ Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Phật giáo Cứu quốc Liên khu 5. Ngài đã thấy mối nguy của CS đối với đạo pháp và dân tộc. CS đội lốt Việt Minh theo dõi và bắt giam Ngài đến Hiệp Định Geneve mới được thả. Kiến thức của Ngài rất uyên bác về triết học và giáo lý Phật Giáo. Cuộc đời của Ngài là cả một dòng lịch sử của vận mạng dân tộc và Phật Giáo. Tâm của Ngài là hiện thân của tình thương quốc gia dân tộc Việt Nam nhược tiểu chơi vơi trong biển khổ của Nhân Loại nên dâng hiến trọn đời mình để cứu khổ cứ nạn.
Thay lời kết luận, người viết bái này xin mượn lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hoà Hảo là người tự coi mình là "một đệ tử trung thành của đức Phật Thích ca" rằng: "Kẻ chết đã yên rồi một kiếp, Người sống còn tái tiếp noi gương." Để đặt niềm tin vào hy vọng nơi Phật Giáo và Phật tử VN là đa số của dân chúng VN, sẽ biến nỗi đau thương và tiếc uổng về sự mất mát lớn lao này thành hành động noi gương vì đạo pháp và dân tộc của Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, Đệ Tứ Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, để sớm giải trừ pháp nạn và quốc nạn hiện thời.