Sau khi hai nghị quyết liên quan đến việc viếng thăm vùng Little Saigon của những quan chức nhà nước Việt Nam được các thành phố Westminster và Garden Grove, thuộc Quận Cam, biểu quyết thông qua, đã có một số bài viết của người Việt từ nhiều nơi trên toàn nước Mỹ phổ biến trên truyền thông Anh ngữ - báo Los Angeles Times, Orange County Register; và Việt ngữ - báo Người Việt, Việt Báo; với những quan điểm ủng hộ cũng như chống đối. Điều này cho thấy không chỉ người Mỹ gốc Việt ở California, đặc biệt là vùng Quận Cam, mới quan tâm mà nhiều nơi cũng chú ý đến sinh hoạt chính trị ở nơi được mệnh danh là thủ đô của người Mỹ gốc Việt.
Thực ra hai nghị quyết này không cấm các phái đoàn nhà nước Việt Nam đến Quận Cam, trong danh xưng cũng như trong nội dung, mà chỉ không muốn đón tiếp vì sợ có biểu tình phản đối, làm hao tốn ngân sách.
Danh xưng Nghị Quyết 3835 của thành phố Westminster, được chấp thuận với tỉ số phiếu 5-0 vào ngày 19 tháng Năm, 2004, là: A Resolution of the City Council of the City of Westminster Relating to the Burdens Placed upon the City by Representatives and Officials from the Socialist Republic of Vietnam Traveling in or through the City of Westminster, tạm dịch: Nghị Quyết của Hội Đồng Thành Phố Westminster Liên Quan Đến những Gánh Nặng Đè Lên Thành Phố về việc Những Đại Diện và Quan Chức từ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đến hoặc đi Qua Thành Phố Westminster.
Nghị Quyết 8565-04 của thành phố Garden Grove, được biểu quyết thông qua ngày 11 tháng Năm 2004 cũng với tỉ số phiếu 5-0, có tên tương tự như nghị quyết của thành phố Westminster, ngoại trừ không nhắc đến "những gánh nặng" trong danh xưng của nghị quyết.
Chính quyền địa phương không muốn đón tiếp và yêu cầu những cơ quan liên hệ đến việc tổ chức những chuyến viếng thăm cho phái đoàn Việt Nam phải thông báo cho các quan chức thành phố biết trước ít nhất 14 ngày lịch (điều số 3 của Nghị Quyết Garden Grove) hay 10 ngày làm việc (điều số 2 của Nghị Quyết Westminster) về những cuộc thăm viếng để họ có phương án bảo vệ an ninh cho phái đoàn và cho cả những người biểu tình phản đối. Hai nghị quyết cũng có điều khoản ghi là nếu có phái đoàn viếng thăm và thành phố phải chi tiền bảo vệ thì cá nhân hay cơ quan tổ chức tiếp đón phải chịu trách nhiệm tài chánh về các chi phí an ninh do việc đón tiếp tạo ra.
Dù Hoa Kỳ và Việt Nam đang có những quan hệ ngoại giao, thương mại, chính trị trong giai đoạn tốt đẹp nhất, bộ ngoại giao Mỹ cũng đã chính thức gửi văn thư đến hai thành phố cho biết họ tôn trọng hai nghị quyết đó.
Sự ra đời của hai nghị quyết không ảnh hưởng gì đến chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, mà hoàn toàn vì lợi ích của người dân địa phương. Lợi ích đây là lo ngại về gánh nặng tài chánh cho ngân sách thành phố, căn cứ vào sự việc năm 1999 Trần Trường, một thương nhân gốc Việt, treo cờ cộng sản Việt Nam và hình Hồ Chí Minh đã tạo ra những cuộc biểu tình của người Việt trong vùng kéo dài hơn một tháng và thành phố Westminster đã phải chi phí 750,000 đô la cho việc giữ gìn an ninh trật tự cho các cuộc biểu tình đó.
Những lập luận chống lại thường nêu việc nghị quyết có thể vi phạm dân quyền, là phản ánh lòng nuôi dưỡng thù hận bởi qúa khứ chiến tranh của một một thiểu số người Việt đến giờ còn tẩy chay mọi thứ từ Việt Nam như du lịch, giao thương, hàng hóa.
Lập luận về vi phạm dân quyền không có cơ sở vững chắc. Vì nếu có thì Liên Đoàn Dân Quyền Người Mỹ (American Civil Liberties Union) đã can thiệp, như tổ chức này đã từng can thiệp và bảo vệ cho Trần Trường trong việc ông trương lên những biểu tượng cộng sản. Hai nghị quyết đó chẳng vi phạm dân quyền của bất cứ một cá thể nào ở Mỹ. Phát biểu ý kiến phản đối, Trần Trường nói trong buổi điều trần rằng nghị quyết là điều kỳ thị, vi phạm dân quyền thì chứng tỏ ông ta chẳng hiểu gì về tự do, dân chủ ở Hoa Kỳ. Những người khác sau này phản đối hai nghị quyết cũng đưa ra lập luận như thế là điều không có sức thuyết phục.
Để thuyết phục những vị dân cử của Westminster và Garden Grove, những người phản đối nghị quyết cần đưa ra con số dẫn chứng về những quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Hoa Kỳ nói chung, và với hai thành phố nói riêng, đã tăng nhanh qua những dịch vụ, hàng hóa mà những cư dân ở đó, nhờ làm ăn, buôn bán, du lịch Việt Nam nên đã mang lợi tức vào cho ngân sách của thành phố. Những người đã mua vé máy bay từ nhưng trung tâm du lịch, những siêu thị bán sản phẩm nhập cảng từ Việt Nam, những cơ sở nhập cảng hàng hóa Việt Nam, nếu tính số thuế đem vào cho mỗi thành phố thì đã đóng góp cho ngân sách nhiều triệu đô la một năm. Như thế những phái đoàn từ Việt Nam đến sẽ làm tăng quan hệ thương mại giữa hai nơi, đem thêm lợi tức về cho thành phố. Và nếu có biểu tình, chắc sẽ không kéo dài nhiều ngày như đã xảy ra trong năm 1999, số tiền chi phí cho an ninh cũng không thể nhiều đến mấy trăm ngàn, chắc chắn sẽ ít hơn là số thuế nhờ giao thương với Việt Nam đem lại.
Quan hệ thương mại tốt đẹp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ có lợi cho hai quốc gia và hai dân tộc.
Rất tiếc nhiều người phản đối hai nghị quyết trên đã không làm được việc đơn giản này trong lúc bản nghị quyết được đem ra thảo luận và biểu quyết, mà sau đó lại đưa ra những lập luận xa vời liên quan đến cuộc chiến Việt Nam xa xưa, hay nói về chiến tranh và vi phạm nhân quyền của Mỹ ở Iraq, rất lạc đề và thiếu sức thuyết phục.
Thực ra hai nghị quyết này không cấm các phái đoàn nhà nước Việt Nam đến Quận Cam, trong danh xưng cũng như trong nội dung, mà chỉ không muốn đón tiếp vì sợ có biểu tình phản đối, làm hao tốn ngân sách.
Danh xưng Nghị Quyết 3835 của thành phố Westminster, được chấp thuận với tỉ số phiếu 5-0 vào ngày 19 tháng Năm, 2004, là: A Resolution of the City Council of the City of Westminster Relating to the Burdens Placed upon the City by Representatives and Officials from the Socialist Republic of Vietnam Traveling in or through the City of Westminster, tạm dịch: Nghị Quyết của Hội Đồng Thành Phố Westminster Liên Quan Đến những Gánh Nặng Đè Lên Thành Phố về việc Những Đại Diện và Quan Chức từ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đến hoặc đi Qua Thành Phố Westminster.
Nghị Quyết 8565-04 của thành phố Garden Grove, được biểu quyết thông qua ngày 11 tháng Năm 2004 cũng với tỉ số phiếu 5-0, có tên tương tự như nghị quyết của thành phố Westminster, ngoại trừ không nhắc đến "những gánh nặng" trong danh xưng của nghị quyết.
Chính quyền địa phương không muốn đón tiếp và yêu cầu những cơ quan liên hệ đến việc tổ chức những chuyến viếng thăm cho phái đoàn Việt Nam phải thông báo cho các quan chức thành phố biết trước ít nhất 14 ngày lịch (điều số 3 của Nghị Quyết Garden Grove) hay 10 ngày làm việc (điều số 2 của Nghị Quyết Westminster) về những cuộc thăm viếng để họ có phương án bảo vệ an ninh cho phái đoàn và cho cả những người biểu tình phản đối. Hai nghị quyết cũng có điều khoản ghi là nếu có phái đoàn viếng thăm và thành phố phải chi tiền bảo vệ thì cá nhân hay cơ quan tổ chức tiếp đón phải chịu trách nhiệm tài chánh về các chi phí an ninh do việc đón tiếp tạo ra.
Dù Hoa Kỳ và Việt Nam đang có những quan hệ ngoại giao, thương mại, chính trị trong giai đoạn tốt đẹp nhất, bộ ngoại giao Mỹ cũng đã chính thức gửi văn thư đến hai thành phố cho biết họ tôn trọng hai nghị quyết đó.
Sự ra đời của hai nghị quyết không ảnh hưởng gì đến chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, mà hoàn toàn vì lợi ích của người dân địa phương. Lợi ích đây là lo ngại về gánh nặng tài chánh cho ngân sách thành phố, căn cứ vào sự việc năm 1999 Trần Trường, một thương nhân gốc Việt, treo cờ cộng sản Việt Nam và hình Hồ Chí Minh đã tạo ra những cuộc biểu tình của người Việt trong vùng kéo dài hơn một tháng và thành phố Westminster đã phải chi phí 750,000 đô la cho việc giữ gìn an ninh trật tự cho các cuộc biểu tình đó.
Những lập luận chống lại thường nêu việc nghị quyết có thể vi phạm dân quyền, là phản ánh lòng nuôi dưỡng thù hận bởi qúa khứ chiến tranh của một một thiểu số người Việt đến giờ còn tẩy chay mọi thứ từ Việt Nam như du lịch, giao thương, hàng hóa.
Lập luận về vi phạm dân quyền không có cơ sở vững chắc. Vì nếu có thì Liên Đoàn Dân Quyền Người Mỹ (American Civil Liberties Union) đã can thiệp, như tổ chức này đã từng can thiệp và bảo vệ cho Trần Trường trong việc ông trương lên những biểu tượng cộng sản. Hai nghị quyết đó chẳng vi phạm dân quyền của bất cứ một cá thể nào ở Mỹ. Phát biểu ý kiến phản đối, Trần Trường nói trong buổi điều trần rằng nghị quyết là điều kỳ thị, vi phạm dân quyền thì chứng tỏ ông ta chẳng hiểu gì về tự do, dân chủ ở Hoa Kỳ. Những người khác sau này phản đối hai nghị quyết cũng đưa ra lập luận như thế là điều không có sức thuyết phục.
Để thuyết phục những vị dân cử của Westminster và Garden Grove, những người phản đối nghị quyết cần đưa ra con số dẫn chứng về những quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Hoa Kỳ nói chung, và với hai thành phố nói riêng, đã tăng nhanh qua những dịch vụ, hàng hóa mà những cư dân ở đó, nhờ làm ăn, buôn bán, du lịch Việt Nam nên đã mang lợi tức vào cho ngân sách của thành phố. Những người đã mua vé máy bay từ nhưng trung tâm du lịch, những siêu thị bán sản phẩm nhập cảng từ Việt Nam, những cơ sở nhập cảng hàng hóa Việt Nam, nếu tính số thuế đem vào cho mỗi thành phố thì đã đóng góp cho ngân sách nhiều triệu đô la một năm. Như thế những phái đoàn từ Việt Nam đến sẽ làm tăng quan hệ thương mại giữa hai nơi, đem thêm lợi tức về cho thành phố. Và nếu có biểu tình, chắc sẽ không kéo dài nhiều ngày như đã xảy ra trong năm 1999, số tiền chi phí cho an ninh cũng không thể nhiều đến mấy trăm ngàn, chắc chắn sẽ ít hơn là số thuế nhờ giao thương với Việt Nam đem lại.
Quan hệ thương mại tốt đẹp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ có lợi cho hai quốc gia và hai dân tộc.
Rất tiếc nhiều người phản đối hai nghị quyết trên đã không làm được việc đơn giản này trong lúc bản nghị quyết được đem ra thảo luận và biểu quyết, mà sau đó lại đưa ra những lập luận xa vời liên quan đến cuộc chiến Việt Nam xa xưa, hay nói về chiến tranh và vi phạm nhân quyền của Mỹ ở Iraq, rất lạc đề và thiếu sức thuyết phục.
Gửi ý kiến của bạn