Bạn,
Nhân vật được nhắc đến trong lá thư này là một họa sĩ ở Sài Gòn đã có hơn 40 năm cầm cọ. Đó là họa sĩ Hồ Hữu Thủ, một họa sĩ thường hay vẽ tranh về ngựa với một họa pháp rất đặc biệt. Mỗi họa phẩm về ngựa của ông có một ngôn ngữ riêng, thu hút sự chú ý của người xem tranh. Nhân năm Ngựa, báo Thanh Niên viết về họa sĩ Hồ Hữu Thủ và tranh ngựa của ông qua đoạn ghi chép như sau.
Ngựa đã có mặt trong tranh một họa sĩ có hơn 40 năm cầm cọ: họa sĩ Hồ Hữu Thủ, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật năm 1963, giảng viên hội họa ở trường Mỹ thuật Bình Dương và trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, hội viên Hội Họa sĩ Trẻ VN trước 1975. Trong cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc và ở nước ngoài, tranh ông được nhận giải thưởng, bức sơn dầu Chiếc bình xanh (1990) bán đấu giá tại Singapore. Ông vẽ tranh sơn mài, vẽ trên đá, tạo hình mỹ thuật bằng gốm, điêu khác chân dung các thi sĩ Trần Dần, Bùi Giáng, và vẫn để tâm vẽ tranh sơn dầu như hồi đôi mươi. Ngoài đời, ven sông xanh, hoặc trên các thảo nguyên mênh mông, ngựa ẩn hiện ở cuối chân trời heo hút với chiếc bờm tung gió nổi hẳn nhờ màu của từng con, nên có ngựa hồng, ngựa bạch, ngựa ô, ngựa tía, song trong tranh của Hồ Hữu Thủ ngựa không đơn thuần một màu và khó gọi tên được vì là ngựa trừu tượng nhưng vẫn là ngựa. Bởi chất liệu của nó được lấy từ chiếc vó câu, cái mặt dài thảm hại, con mắt nhìn xuống và cái lưng sẵn lòng dâng hiến cho người cưỡi lên. Khi được tái tạo, toàn thân của nó, bộ dạng của nó, màu sắc của nó là bàn tay của Hồ Hữu Thủ. Nhìn là biết ngựa, nhưng không giống như ngựa ở sở thú, ở các trường đua, ở thành Troie, hoặc trên các bình cổ, vạc cổ chạm ngựa ở vùng đất Hy Lạp, Đan Mạch, Ukraina xưa. Không giống với loại ngựa vẽ trong động vật học giáo khoa thư, ngựa trong tranh Hồ Hữu Thủ “phi” phàm và “mộng” hơn rất xa. Mộng như con hẻm nhỏ tí có mai tứ quý dẫn vào nhà ông ở 15 B Nguyễn Văn Thủ, Sài Gòn, nơi ông vẽ nhiều ngựa, và đây, cánh cửa căn phòng phía trái ngôi nhà mở ra, với lời giải thích: Bức này, cũng như ngựa, nó không sao chép những đường vân của lá, cánh và nhụy của từng đóa, nó là hơi thở, hình bóng, tâm hồn của hoa và đồ vật quanh ta.
Khi được hỏi là mọi vật, kể cả ngựa trong họa phẩm của ông có phải vừa hiện thực vừa trừu tượng, họa sĩ Hồ Hữu Thủ nói: “Hiện thực, trừu tượng, đa đa, lập thể, siêu thực... sở dĩ có mặt các trường phái đó, là do con người muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc quá chặt đôi tay sáng tạo của mình vào thiên nhiên và sự vật. Thật ra phong cách đó chỉ nhắm hướng đến thể hiện cái “một” toát ra từ thiên nhiên và sự vật mà họa sĩ bị hút vào. Họa sĩ Hồ Hữu Thủ nói thêm: Tôi nhất định không phụ thuộc vào “cái bị vẽ” hoặc vật được vẽ như ngựa mà chúng ta đang nói đến.
Bạn,
Cũng theo báo TN, khi phóng viên hỏi ông: “Có nghĩa là ngựa chạy phần ngựa, ông vẽ phần ông"” Họa sĩ đã giải thích: “Không hẳn thể. Nó chạy nó không biết về đâu. Tôi vẽ tôi biết tôi vẽ về nó. Và tôi để nó chạy lên khung màu một cách tự do, như bốn góc vuông mà mười phương thế giới mà nó phi qua.” Họa sĩ nói thêm rằng ông không thể vẽ ngựa trong thế bất động được, vì “chúng không bao giờ ngừng sống động, phát triển, nên họa sĩ không thể “chộp” một hình ảnh cố định để theo đó vẽ. Họa sĩ nói tiếp: “Ngựa như ngựa, tôi muốn vẽ ngựa trong tâm thái đó, mạnh mẽ đầy nam tính, hiện ra dưới với một vầng trăng ướt.”
Nhân vật được nhắc đến trong lá thư này là một họa sĩ ở Sài Gòn đã có hơn 40 năm cầm cọ. Đó là họa sĩ Hồ Hữu Thủ, một họa sĩ thường hay vẽ tranh về ngựa với một họa pháp rất đặc biệt. Mỗi họa phẩm về ngựa của ông có một ngôn ngữ riêng, thu hút sự chú ý của người xem tranh. Nhân năm Ngựa, báo Thanh Niên viết về họa sĩ Hồ Hữu Thủ và tranh ngựa của ông qua đoạn ghi chép như sau.
Ngựa đã có mặt trong tranh một họa sĩ có hơn 40 năm cầm cọ: họa sĩ Hồ Hữu Thủ, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật năm 1963, giảng viên hội họa ở trường Mỹ thuật Bình Dương và trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, hội viên Hội Họa sĩ Trẻ VN trước 1975. Trong cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc và ở nước ngoài, tranh ông được nhận giải thưởng, bức sơn dầu Chiếc bình xanh (1990) bán đấu giá tại Singapore. Ông vẽ tranh sơn mài, vẽ trên đá, tạo hình mỹ thuật bằng gốm, điêu khác chân dung các thi sĩ Trần Dần, Bùi Giáng, và vẫn để tâm vẽ tranh sơn dầu như hồi đôi mươi. Ngoài đời, ven sông xanh, hoặc trên các thảo nguyên mênh mông, ngựa ẩn hiện ở cuối chân trời heo hút với chiếc bờm tung gió nổi hẳn nhờ màu của từng con, nên có ngựa hồng, ngựa bạch, ngựa ô, ngựa tía, song trong tranh của Hồ Hữu Thủ ngựa không đơn thuần một màu và khó gọi tên được vì là ngựa trừu tượng nhưng vẫn là ngựa. Bởi chất liệu của nó được lấy từ chiếc vó câu, cái mặt dài thảm hại, con mắt nhìn xuống và cái lưng sẵn lòng dâng hiến cho người cưỡi lên. Khi được tái tạo, toàn thân của nó, bộ dạng của nó, màu sắc của nó là bàn tay của Hồ Hữu Thủ. Nhìn là biết ngựa, nhưng không giống như ngựa ở sở thú, ở các trường đua, ở thành Troie, hoặc trên các bình cổ, vạc cổ chạm ngựa ở vùng đất Hy Lạp, Đan Mạch, Ukraina xưa. Không giống với loại ngựa vẽ trong động vật học giáo khoa thư, ngựa trong tranh Hồ Hữu Thủ “phi” phàm và “mộng” hơn rất xa. Mộng như con hẻm nhỏ tí có mai tứ quý dẫn vào nhà ông ở 15 B Nguyễn Văn Thủ, Sài Gòn, nơi ông vẽ nhiều ngựa, và đây, cánh cửa căn phòng phía trái ngôi nhà mở ra, với lời giải thích: Bức này, cũng như ngựa, nó không sao chép những đường vân của lá, cánh và nhụy của từng đóa, nó là hơi thở, hình bóng, tâm hồn của hoa và đồ vật quanh ta.
Khi được hỏi là mọi vật, kể cả ngựa trong họa phẩm của ông có phải vừa hiện thực vừa trừu tượng, họa sĩ Hồ Hữu Thủ nói: “Hiện thực, trừu tượng, đa đa, lập thể, siêu thực... sở dĩ có mặt các trường phái đó, là do con người muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc quá chặt đôi tay sáng tạo của mình vào thiên nhiên và sự vật. Thật ra phong cách đó chỉ nhắm hướng đến thể hiện cái “một” toát ra từ thiên nhiên và sự vật mà họa sĩ bị hút vào. Họa sĩ Hồ Hữu Thủ nói thêm: Tôi nhất định không phụ thuộc vào “cái bị vẽ” hoặc vật được vẽ như ngựa mà chúng ta đang nói đến.
Bạn,
Cũng theo báo TN, khi phóng viên hỏi ông: “Có nghĩa là ngựa chạy phần ngựa, ông vẽ phần ông"” Họa sĩ đã giải thích: “Không hẳn thể. Nó chạy nó không biết về đâu. Tôi vẽ tôi biết tôi vẽ về nó. Và tôi để nó chạy lên khung màu một cách tự do, như bốn góc vuông mà mười phương thế giới mà nó phi qua.” Họa sĩ nói thêm rằng ông không thể vẽ ngựa trong thế bất động được, vì “chúng không bao giờ ngừng sống động, phát triển, nên họa sĩ không thể “chộp” một hình ảnh cố định để theo đó vẽ. Họa sĩ nói tiếp: “Ngựa như ngựa, tôi muốn vẽ ngựa trong tâm thái đó, mạnh mẽ đầy nam tính, hiện ra dưới với một vầng trăng ướt.”
Gửi ý kiến của bạn