Bạn,
Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa, có khu phố Long Sơn thị trấn Long Điền chỉ là một xóm nhỏ nhưng lại có hơn chục gia đình làm nghề đúc chuông. Không giàu, nhưng nghề đúc chuông đồng cũng là nguồn mưu sinh tạm đủ cho người làm nghề, và đã có một thời vang bóng. Ngày nay, khi đến Long Điền, tìm về xóm chuông, vẫn còn đấy những mái nhà xưa nhưng không còn nhộn nhịp như trước nữa, thay vào đó là một khung cảnh vắng vẻ, đìu hiu. Báo Bà Rịa-Vũng Tàu ghi nhận toàn cảnh về xóm chuông này như sau.
Cách thị trấn Long Điền khoảng 1km, hơn 11 giờ trưa những người thợ đúc ở xóm chuông vẫn còn vật lộn với khói than và đất sét. Khuôn mặt đẫm mồ hôi của ông Trần Văn Hồng, chủ một cơ sở sản xuất chuông khu phố Long Sơn, không thể giấu nỗi vẻ mệt nhọc. Hơn bốn mươi năm ông Hồng luôn canh cánh một nỗi lòng là làm sao để làng nghề đúc chuông mãi được lưu truyền.Không một dòng gia phả ghi chép lại và những người thợ đúc chuông cũng không ai biết xóm chuông có từ bao giờ và ông tổ của làng nghề truyền thống này là ai, chỉ biết rằng nghề đúc chuông đã từng có một "quá khứ vàng son". Ông Hồng bùi ngùi nhớ lại khoảng thời gian 1961-1965 là những năm nghề đúc chuông đồng được "lên ngôi". Một người thợ chính cũng có thể làm đủ nuôi sống cả gia đình. Lò đúc của những "người muôn năm cũ" như Hai Đảnh, Hai Thái, Ba Tam... luôn ngân vang những âm thanh trong trẻo, nhộn nhịp những bước chân người đến "thỉnh" (mua) chuông. Đặc biệt dịp tháng 7-8 âm lịch hay những tháng giáp Tết Nguyên đán, người đến "thỉnh" chuông rất đông..
Lớp cha ông ngày ấy giờ đã hóa "người thiên cổ" nhưng con cháu của họ vẫn "nối nghiệp. Ông Bùi Văn Bán, chủ một lò đúc chuông cho biết thêm: "Để có một sản phẩm hoàn chỉnh, người thợ đúc phải trải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn như théc chuông, song sườn, vẽ hoa văn, tiết họa... Một cái chuông có bề ngoài đẹp, tiếng chuông hay trước tiên là nguyên liệu phải tốt, phải chế đúng quy cách. Nhưng trước hết người thợ đúc cần phải có một cặp mắt tinh tường và đôi tay khéo léo và quan trọng nhất, họ phải là những "nghệ sĩ bậc thầy" về âm thanh...".
Bạn,
Cũng theo báo quốc nội, những kinh nghiệm đúc chuông đồng như thế của cha ông vẫn được những người ở thế hệ sau đón nhận. Nhưng xóm chuông ngày nay dường như đã thiếu vắng hẳn cái không khí nhộn nhịp của người đến thỉnh chuông như những năm trước.Ông Hồng tâm sự: "Ba đời theo nghề đúc chuông rồi, sinh nghề thì tử nghiệp, bỏ đi tiếc lắm. Tôi có 8 người con, muốn truyền lại kinh nghiệm cho chúng nhưng cuộc sống càng ngày càng khó khăn, chỉ dựa vào đúc chuông thì không thể sống được nên chúng nó chỉ phụ thôi chứ không đứa nào chịu nối nghiệp...". Cùng thời với ông Hồng, ông Bùi Văn Bán cũng chung một nỗi niềm như vậy. Họ cảm thấy tiếc nuối làng nghề truyền thống đang dần dần bị mai một đi mà không biết làm gì để cứu vãn "bỏ thì thương, vương thì tội"...
Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa, có khu phố Long Sơn thị trấn Long Điền chỉ là một xóm nhỏ nhưng lại có hơn chục gia đình làm nghề đúc chuông. Không giàu, nhưng nghề đúc chuông đồng cũng là nguồn mưu sinh tạm đủ cho người làm nghề, và đã có một thời vang bóng. Ngày nay, khi đến Long Điền, tìm về xóm chuông, vẫn còn đấy những mái nhà xưa nhưng không còn nhộn nhịp như trước nữa, thay vào đó là một khung cảnh vắng vẻ, đìu hiu. Báo Bà Rịa-Vũng Tàu ghi nhận toàn cảnh về xóm chuông này như sau.
Cách thị trấn Long Điền khoảng 1km, hơn 11 giờ trưa những người thợ đúc ở xóm chuông vẫn còn vật lộn với khói than và đất sét. Khuôn mặt đẫm mồ hôi của ông Trần Văn Hồng, chủ một cơ sở sản xuất chuông khu phố Long Sơn, không thể giấu nỗi vẻ mệt nhọc. Hơn bốn mươi năm ông Hồng luôn canh cánh một nỗi lòng là làm sao để làng nghề đúc chuông mãi được lưu truyền.Không một dòng gia phả ghi chép lại và những người thợ đúc chuông cũng không ai biết xóm chuông có từ bao giờ và ông tổ của làng nghề truyền thống này là ai, chỉ biết rằng nghề đúc chuông đã từng có một "quá khứ vàng son". Ông Hồng bùi ngùi nhớ lại khoảng thời gian 1961-1965 là những năm nghề đúc chuông đồng được "lên ngôi". Một người thợ chính cũng có thể làm đủ nuôi sống cả gia đình. Lò đúc của những "người muôn năm cũ" như Hai Đảnh, Hai Thái, Ba Tam... luôn ngân vang những âm thanh trong trẻo, nhộn nhịp những bước chân người đến "thỉnh" (mua) chuông. Đặc biệt dịp tháng 7-8 âm lịch hay những tháng giáp Tết Nguyên đán, người đến "thỉnh" chuông rất đông..
Lớp cha ông ngày ấy giờ đã hóa "người thiên cổ" nhưng con cháu của họ vẫn "nối nghiệp. Ông Bùi Văn Bán, chủ một lò đúc chuông cho biết thêm: "Để có một sản phẩm hoàn chỉnh, người thợ đúc phải trải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn như théc chuông, song sườn, vẽ hoa văn, tiết họa... Một cái chuông có bề ngoài đẹp, tiếng chuông hay trước tiên là nguyên liệu phải tốt, phải chế đúng quy cách. Nhưng trước hết người thợ đúc cần phải có một cặp mắt tinh tường và đôi tay khéo léo và quan trọng nhất, họ phải là những "nghệ sĩ bậc thầy" về âm thanh...".
Bạn,
Cũng theo báo quốc nội, những kinh nghiệm đúc chuông đồng như thế của cha ông vẫn được những người ở thế hệ sau đón nhận. Nhưng xóm chuông ngày nay dường như đã thiếu vắng hẳn cái không khí nhộn nhịp của người đến thỉnh chuông như những năm trước.Ông Hồng tâm sự: "Ba đời theo nghề đúc chuông rồi, sinh nghề thì tử nghiệp, bỏ đi tiếc lắm. Tôi có 8 người con, muốn truyền lại kinh nghiệm cho chúng nhưng cuộc sống càng ngày càng khó khăn, chỉ dựa vào đúc chuông thì không thể sống được nên chúng nó chỉ phụ thôi chứ không đứa nào chịu nối nghiệp...". Cùng thời với ông Hồng, ông Bùi Văn Bán cũng chung một nỗi niềm như vậy. Họ cảm thấy tiếc nuối làng nghề truyền thống đang dần dần bị mai một đi mà không biết làm gì để cứu vãn "bỏ thì thương, vương thì tội"...
Gửi ý kiến của bạn