Bạn,
Tại miền Tây, cứ vào độ tháng 10-12 (âm lịch) làng bánh truyền thống xứ dừa Bến Tre lại rộn ràng, hoạt động hối hả để kịp ra lò những ổ bánh phồng, bánh tráng bán trong dịp Tết. Đã xuất hiện gần trăm năm nhưng đến nay món ăn dân dã này vẫn được người dân nông thôn, thị thành miền Tây ưa chuộng. Dân gian có câu truyền miệng: "Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc" để nói lên cái dư vị độc đáo ăn rồi khó quên. Báo Thanh Niên viết về các làng bánh ở miền Tây như sau.
Tại Bến Tre, một thanh niên tên Huy nói hồi xưa vào Tết, ngoài trái cây, thịt kho thì hầu như dân ở Bến Tre nào cũng làm bánh tráng, bánh phồng cúng ông bà. Mấy ngày Tết hễ trời vừa hửng sáng hầu như nhà nào cũng đỏ lửa, các cụ thức sớm pha trà, nướng bánh nhâm nhi bàn chuyện đời, chuyện vườn tược, đồng áng... hưởng một cái Tết thanh nhàn sau một năm làm lụng cực nhọc. Lần hồi, dân xứ khác biết bánh tráng ngon mới... "xúi" người dân xứ này làm bán ra các tỉnh. Ban đầu chỉ một vài hộ rồi nhanh chóng lan rộng cả xã, làm quanh năm suốt tháng chỉ trừ ngày mưa. Lâu dần hình thành làng nghề sản xuất bánh tráng truyền thống nổi danh. Xã Mỹ Thạnh hầu như nhà nào cũng tất bật, chỉ tính riêng ấp Nhơn Nghĩa đã có hơn 100 hộ làm bánh tráng. Huy nói: "Làm đêm, làm ngày vậy mới kịp giao bạn hàng ngày Tết. Nếu ngày thường mỗi lò làm ra 300-400 bánh, thì mấy ngày này phải làm gấp đôi, một thợ giỏi có thể làm 20 - 30 lít gạo/ngày".
Trái với làng bánh tráng Mỹ Lồng, tới làng bánh phồng Sơn Đốc ở xã Hưng Nhượng, từ xa đã nghe tiếng máy chạy rầm rầm, tiếng cối chày vang lên liên hồi. Anh Đặng Thanh Hải, giới thiệu dòng họ anh đã... 4 đời làm bánh phồng. Anh kể: "Hồi đó làm bánh ngọt không à, bánh to như cái quạt mo nướng bằng lửa rơm". Anh Hải cũng không ngờ loại bánh chỉ có mặt ngày Tết, ăn vui miệng của ông bà thì hàng chục năm sau lại giúp hơn 50 hộ dân với hàng trăm lao động xã Hưng Nhượng sống được và tạo nên làng nghề tên tuổi. Cũng như bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng rất kén nếp, nếp phải là nếp rặt, không lẫn gạo thì mới cán ra bánh đẹp, nếu lẫn gạo, cám khi cán bánh sẽ xấu đi. Nếp cũng phải ngâm nhiều giờ liền tới khi nào thấy nước trong mới thôi. Sau đó mới nấu nếp, một ổ bánh độ 10 lít, khi nếp chín bỏ vào cối quết. Anh kể: "Lúc trước dùng sức người cực lắm, 6 người liên tục dùng sức đạp chày quết, nửa tiếng mới xong một ổ và phải đạp liên tục không ngưng nghỉ để bánh đừng chai, bột đừng nguội, người quết cũng phải theo nhịp chày mà làm". Nay thì làng bánh đã thay thế bằng máy quết, chỉ 15 phút là xong một ổ và cứ cán một ổ ra 300 bánh. Ngày thường, cả xã cung ứng thị trường 50 thiên bánh (1 thiên là 1.000 cái) thì ngày Tết cũng phải tăng gấp đôi.
Bạn,
Báo TN viết tiếp: bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc nức tiếng cả VN, nhưng với người dân quê xứ dừa niềm hãnh diện lớn nhất là họ giữ được truyền thống lâu đời. Anh Hải cũng như cư dân nơi đây đã quen tiếng chày đến mức "không nghe thì không ngủ được" như lời anh thú nhận.
Tại miền Tây, cứ vào độ tháng 10-12 (âm lịch) làng bánh truyền thống xứ dừa Bến Tre lại rộn ràng, hoạt động hối hả để kịp ra lò những ổ bánh phồng, bánh tráng bán trong dịp Tết. Đã xuất hiện gần trăm năm nhưng đến nay món ăn dân dã này vẫn được người dân nông thôn, thị thành miền Tây ưa chuộng. Dân gian có câu truyền miệng: "Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc" để nói lên cái dư vị độc đáo ăn rồi khó quên. Báo Thanh Niên viết về các làng bánh ở miền Tây như sau.
Tại Bến Tre, một thanh niên tên Huy nói hồi xưa vào Tết, ngoài trái cây, thịt kho thì hầu như dân ở Bến Tre nào cũng làm bánh tráng, bánh phồng cúng ông bà. Mấy ngày Tết hễ trời vừa hửng sáng hầu như nhà nào cũng đỏ lửa, các cụ thức sớm pha trà, nướng bánh nhâm nhi bàn chuyện đời, chuyện vườn tược, đồng áng... hưởng một cái Tết thanh nhàn sau một năm làm lụng cực nhọc. Lần hồi, dân xứ khác biết bánh tráng ngon mới... "xúi" người dân xứ này làm bán ra các tỉnh. Ban đầu chỉ một vài hộ rồi nhanh chóng lan rộng cả xã, làm quanh năm suốt tháng chỉ trừ ngày mưa. Lâu dần hình thành làng nghề sản xuất bánh tráng truyền thống nổi danh. Xã Mỹ Thạnh hầu như nhà nào cũng tất bật, chỉ tính riêng ấp Nhơn Nghĩa đã có hơn 100 hộ làm bánh tráng. Huy nói: "Làm đêm, làm ngày vậy mới kịp giao bạn hàng ngày Tết. Nếu ngày thường mỗi lò làm ra 300-400 bánh, thì mấy ngày này phải làm gấp đôi, một thợ giỏi có thể làm 20 - 30 lít gạo/ngày".
Trái với làng bánh tráng Mỹ Lồng, tới làng bánh phồng Sơn Đốc ở xã Hưng Nhượng, từ xa đã nghe tiếng máy chạy rầm rầm, tiếng cối chày vang lên liên hồi. Anh Đặng Thanh Hải, giới thiệu dòng họ anh đã... 4 đời làm bánh phồng. Anh kể: "Hồi đó làm bánh ngọt không à, bánh to như cái quạt mo nướng bằng lửa rơm". Anh Hải cũng không ngờ loại bánh chỉ có mặt ngày Tết, ăn vui miệng của ông bà thì hàng chục năm sau lại giúp hơn 50 hộ dân với hàng trăm lao động xã Hưng Nhượng sống được và tạo nên làng nghề tên tuổi. Cũng như bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng rất kén nếp, nếp phải là nếp rặt, không lẫn gạo thì mới cán ra bánh đẹp, nếu lẫn gạo, cám khi cán bánh sẽ xấu đi. Nếp cũng phải ngâm nhiều giờ liền tới khi nào thấy nước trong mới thôi. Sau đó mới nấu nếp, một ổ bánh độ 10 lít, khi nếp chín bỏ vào cối quết. Anh kể: "Lúc trước dùng sức người cực lắm, 6 người liên tục dùng sức đạp chày quết, nửa tiếng mới xong một ổ và phải đạp liên tục không ngưng nghỉ để bánh đừng chai, bột đừng nguội, người quết cũng phải theo nhịp chày mà làm". Nay thì làng bánh đã thay thế bằng máy quết, chỉ 15 phút là xong một ổ và cứ cán một ổ ra 300 bánh. Ngày thường, cả xã cung ứng thị trường 50 thiên bánh (1 thiên là 1.000 cái) thì ngày Tết cũng phải tăng gấp đôi.
Bạn,
Báo TN viết tiếp: bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc nức tiếng cả VN, nhưng với người dân quê xứ dừa niềm hãnh diện lớn nhất là họ giữ được truyền thống lâu đời. Anh Hải cũng như cư dân nơi đây đã quen tiếng chày đến mức "không nghe thì không ngủ được" như lời anh thú nhận.
Gửi ý kiến của bạn