Ngay từ khởi đầu, sự phục hồi kinh tế này dường như khác biệt. Một cách chính thức thì sự phục hồi đã được bắt đầu từ tháng 11 năm 2001. Nhưng chỉ trong vòng vài tháng qua, sự phát triển đã đủ mạnh để cho công ty ở Mỹ treo bảng mướn người. Bây giờ thì thị trường việc làm mới xuất hiện nhưng sư lo sợ trong thị trường taì chánh như là tăng lãi suất và giá xăng dầu tăng vọt sẽ sớm đập gãy sự tăng trưởng và sự gia tăng mướn người.
Thêm vào đó sự tăng mạnh năng suất cho phép các hãng xưởng trì hoãn lại sự mướn nhân viên. Nó cũng giúp kiềm chế sự lạm phát bằng cách giảm tiềân chi phí lao động. Nó cũng làm cho các công ty có khả năng làm ra nhiều sản phẩm mà ít bị căng thẳng kinh tế khi sự phát triển trưởng thành.
Một cách chắc ăn, tăng trưởng năng suất dường như chậm lại một chút khi những người mới đang thích ứng công việc của họ. Quá trình đó có thể đã bắt đầu từ tam cá nguyệt đầu tiên khi tỷ số tăng trưởng năng suất xuống một cách không đáng kể ở mức 3.5%. Dù sao đó vẫn còn rất tốt so với mức 1.5% trong 2 thập niên trước sự phát triển của giữa thập niên 90.
Thật vậy, năng suất hiện tại đã thúc đẩy những chuyên gia tăng sự ước lượng của họ trong lãi suất dài hạn lên 3%. Theo tỷ số tăng trưởng công việc 1% mỗi năm thì sản lượng thu nhập trong nước Mỹ có thể lên đến 3.5% hay cao hơn mà không cần lo lắng về sự lay động quá mức.
Sự phục hồi đã làm ông Alan Greenspan và những đồng sự của ông dự định lên lãi suất.
Sự lạm phát vẫn còn thấp trong vòng 31 tháng của sự phục hồi. Vật giá tiêu dùng như thức ăn và điện nước ở mức 1.4% cao hơn tháng 3 năm ngoái nhưng vẫn còn trong giới hạn dễ chịu là 1%-2%.
Tỷ số thất nghiệp giảm xuống 5% so với 6.3% của tháng 6 năm trước, nhưng nó vẫn làm nản lòng cho những công nhân muốn rời lực lượng lao động. Với sự chểnh mảng trong thị trường lao động, không có lý do nào cho các công ty phải trả giá với công nhân của mình.