TOKYO (VB-nn).-Cuối năm 1998, tổng kết một năm tuần tra khu rừng Aokigahara dưới chân Phú Sĩ Sơn, cảnh sát tìm thấy 73 xác người. Việc tìm thấy xác chết trong khu rừng này không có gì lạ. Màu xanh thẳm và cây cối lan tràn của nó xưa nay vẫn quyến rũ những người chán đời tìm đến, nhưng trong năm 1997, người ta chỉ tìm thấy 55 cái xác. Năm sau nhiều gần gấp rưỡi năm trước, đây là sự tiến triển không lấy gì làm vui mừng. Người Nhật đang tự tử nhiều quá.
Tờ báo lớn nhất của Nhật, Asahi Shimbun, căn cứ vào các báo cáo của cảnh sát, đã lên tiếng báo động “khẩn trương”. Thống kê của Sở Cảnh Sát Quốc Gia cho thấy cứ mỗi ngày, trong năm 1998, có 90 người quyên sinh, tăng 34.7% so với năm trước.
Người tự tìm cái chết hẳn phải tuyệt vọng, song vì sao những người Nhật này tuyệt vọng" Câu trả lời tuy phức tạp, song không khó khăn lắm: do hậu quả của kinh tế trì trệ, bị cho nghỉ việc bất ngờ.
Trong năm 1998, nạn thất nghiệp ở Nhật lên tới mức cao nhất trong khi các ông ty sa thải nhân viên hàng loạt, hay nhân đó, sa thải nhân viên kỳ cựu để mướn một lớp mới, trẻ hơn, và tốn ít hơn.
Hiển nhiên đó là lý do nạn tự tử lên cao đột ngột. Trong năm 1998, theo thống kê của Cảnh sát, số người tự tử là 32.863 người. Nhật bắt đầu ghi sổ người tự tử từ năm 1947, và năm 1998, con số trong sổ này lên tới mức cao nhất. Yukiko Nishihara, giám đốc một tổ chức ngăn ngừa những cái chết sảng, nói rằng sau 20 năm cầm đầu tổ chức này, trước ở Osaka, và hiện nay ở Tokyo, chưa bao giờ chuyện kinh khủng như thế này xảy ra.
Trong lịch sử, truyền thống Nhật, tự tử được ca ngợi như là một hành vi tự trọng, can đảm. Tuy nhiên trong những năm gần đây, cũng đã có nhiều phán đoán mạnh mẽ: tự tử là vô trách nhiệm.
Trong số 32.863 người tự tử trong năm 1998, phân tích cho thấy những thành phần như sau:
— Những người tự tử ở lớp tuổi trên 20 tăng 40%.
— Những người tự tử ở lớp tuổi từ 40 tới 59 tăng 44.6%.
Ở Nhật, mất việc không chỉ có nghĩa là mất một kế sinh nhai. Ở Nhật, người mất việc bị xã hội khinh bỉ ra mặt, và thường trở thành kẻ có lỗi. Ông Hiroshi Kawahito, một luật sư, và cũng là một người luôn luôn lên tiếng bênh vực cho các nạn nhân, nói rằng “lý do quan trọng nhất đưa đến việc tự tử chính vì xã hội nhìn người mất việc như là mất nhân phẩm.” Những người tự tử không hẳn đã hoàn toàn mất việc. có nhiều người vẫn còn đang có job, nhưng bị hạ tầng công tác, hay tương lai nghề nghiệp không sáng sủa.
Ông cho biết cùng với một nhóm bạn, ông đã mở “chiến dịch một ngày” lắng nghe những ý kiến của những kẻ chán đời, hay thân nhân của những người tự tử, qua đường giây điện thoại. Ông cho biết: “Chỉ một đường giây điện thoại nhận được 300 cú gọi vào, và đa số lên án người tự tử. Như trốn trách niệm, cư xử không đúng cách. “Ở Nhật, vai trò kẻ phạm tội và nạn nhân đảo ngược trong vấn đề tử tử.” Ông luật sư này nói rằng kẻ có tội là các hãng xưởng đã đuổi sở nhân viên vì các lý do buôn bán.
Điển hình là chuyện xảy ra ở đường xe lửa có tên là Chuo line. Rất nhiều nạn nhân chọn con đường tàu hỏa này để đâm đầu vào. Người ta đã do đó gọi tên con đường là Chuo-cide (phiên âm tiếng Anh Suicide, tự tử). Công ty JR East, là công ty cai quản đường xe hỏa này, đã tính tiền thân nhân người tự tử, “vì đã làm cản trở giao thông”.
Từ 31 tháng 3.1998 đến ngày này năm nay, có 33 người đâm đầu vào đường xe hỏa Chuo. Năm trước có 25. Nhưng công ty này nói tất cả là do tai nạn “vì không làm sao biết người tự tử với người say rượu ngã vào đường xe hỏa khác nhau ra sao.”
Nhật kiểm soát việc bán súng cực kỳ ngặt nghèo, do đó những cách tự tử thông dụng là ném mình vào đường xe lửa, treo cổ, nhảy cầu, hay uống thuốc độc.
Bác sĩ Shizuo Machizawa, một chuyên gia trong ngành tâm lý, nhất là về tự tử, có một giải thích đáng tin cậy. Ông nói đành rằng kinh tế đóng vai trò quan trọng trong nạn tử tử năm 1998, song còn những lý do căn bản khác. Theo ông, trong truyền thống Nhật, cấp dưới tuyệt đối trung thành với cấp trên, nhiều khi liên hệ giống như liên hệ cha con. Liên hệ này coi như một bảo đảm an toàn trong công việc. Nay, trước áp lực kinh tế quá lớn, cấp trên đành hy sinh lòng tin cậy kia. Việc này gây khủng hoảng xã hội, và người ta thấy tương lai lung lay.
Hiện nay, nơi cửa rừng Aokigahara, nhiều tấm bảng đã được dựng lên, trong nhắc nhở những kẻ chán đời hãy nghĩ đến cha mẹ, anh chị em, con cái. Rằng đời là đáng quí. Rằng hãy gọi chúng tôi trước khi chết. Bên dưới là một hai số điện thoại. Trong khi đó, cảnh sát đi tuần tiễu thường xuyên hơn. Một phát ngôn viên lực lượng cảnh sát dưới chân núi cho biết, mỗi ngày họ cứu ít nhất một người, bằng cách bắt về nhốt để canh chừng. Hỏi làm sao biết người đó định tự tử, người cảnh sát này nói: “Anh ta mặc đồ rất nghiêm chỉnh”.
Tờ báo lớn nhất của Nhật, Asahi Shimbun, căn cứ vào các báo cáo của cảnh sát, đã lên tiếng báo động “khẩn trương”. Thống kê của Sở Cảnh Sát Quốc Gia cho thấy cứ mỗi ngày, trong năm 1998, có 90 người quyên sinh, tăng 34.7% so với năm trước.
Người tự tìm cái chết hẳn phải tuyệt vọng, song vì sao những người Nhật này tuyệt vọng" Câu trả lời tuy phức tạp, song không khó khăn lắm: do hậu quả của kinh tế trì trệ, bị cho nghỉ việc bất ngờ.
Trong năm 1998, nạn thất nghiệp ở Nhật lên tới mức cao nhất trong khi các ông ty sa thải nhân viên hàng loạt, hay nhân đó, sa thải nhân viên kỳ cựu để mướn một lớp mới, trẻ hơn, và tốn ít hơn.
Hiển nhiên đó là lý do nạn tự tử lên cao đột ngột. Trong năm 1998, theo thống kê của Cảnh sát, số người tự tử là 32.863 người. Nhật bắt đầu ghi sổ người tự tử từ năm 1947, và năm 1998, con số trong sổ này lên tới mức cao nhất. Yukiko Nishihara, giám đốc một tổ chức ngăn ngừa những cái chết sảng, nói rằng sau 20 năm cầm đầu tổ chức này, trước ở Osaka, và hiện nay ở Tokyo, chưa bao giờ chuyện kinh khủng như thế này xảy ra.
Trong lịch sử, truyền thống Nhật, tự tử được ca ngợi như là một hành vi tự trọng, can đảm. Tuy nhiên trong những năm gần đây, cũng đã có nhiều phán đoán mạnh mẽ: tự tử là vô trách nhiệm.
Trong số 32.863 người tự tử trong năm 1998, phân tích cho thấy những thành phần như sau:
— Những người tự tử ở lớp tuổi trên 20 tăng 40%.
— Những người tự tử ở lớp tuổi từ 40 tới 59 tăng 44.6%.
Ở Nhật, mất việc không chỉ có nghĩa là mất một kế sinh nhai. Ở Nhật, người mất việc bị xã hội khinh bỉ ra mặt, và thường trở thành kẻ có lỗi. Ông Hiroshi Kawahito, một luật sư, và cũng là một người luôn luôn lên tiếng bênh vực cho các nạn nhân, nói rằng “lý do quan trọng nhất đưa đến việc tự tử chính vì xã hội nhìn người mất việc như là mất nhân phẩm.” Những người tự tử không hẳn đã hoàn toàn mất việc. có nhiều người vẫn còn đang có job, nhưng bị hạ tầng công tác, hay tương lai nghề nghiệp không sáng sủa.
Ông cho biết cùng với một nhóm bạn, ông đã mở “chiến dịch một ngày” lắng nghe những ý kiến của những kẻ chán đời, hay thân nhân của những người tự tử, qua đường giây điện thoại. Ông cho biết: “Chỉ một đường giây điện thoại nhận được 300 cú gọi vào, và đa số lên án người tự tử. Như trốn trách niệm, cư xử không đúng cách. “Ở Nhật, vai trò kẻ phạm tội và nạn nhân đảo ngược trong vấn đề tử tử.” Ông luật sư này nói rằng kẻ có tội là các hãng xưởng đã đuổi sở nhân viên vì các lý do buôn bán.
Điển hình là chuyện xảy ra ở đường xe lửa có tên là Chuo line. Rất nhiều nạn nhân chọn con đường tàu hỏa này để đâm đầu vào. Người ta đã do đó gọi tên con đường là Chuo-cide (phiên âm tiếng Anh Suicide, tự tử). Công ty JR East, là công ty cai quản đường xe hỏa này, đã tính tiền thân nhân người tự tử, “vì đã làm cản trở giao thông”.
Từ 31 tháng 3.1998 đến ngày này năm nay, có 33 người đâm đầu vào đường xe hỏa Chuo. Năm trước có 25. Nhưng công ty này nói tất cả là do tai nạn “vì không làm sao biết người tự tử với người say rượu ngã vào đường xe hỏa khác nhau ra sao.”
Nhật kiểm soát việc bán súng cực kỳ ngặt nghèo, do đó những cách tự tử thông dụng là ném mình vào đường xe lửa, treo cổ, nhảy cầu, hay uống thuốc độc.
Bác sĩ Shizuo Machizawa, một chuyên gia trong ngành tâm lý, nhất là về tự tử, có một giải thích đáng tin cậy. Ông nói đành rằng kinh tế đóng vai trò quan trọng trong nạn tử tử năm 1998, song còn những lý do căn bản khác. Theo ông, trong truyền thống Nhật, cấp dưới tuyệt đối trung thành với cấp trên, nhiều khi liên hệ giống như liên hệ cha con. Liên hệ này coi như một bảo đảm an toàn trong công việc. Nay, trước áp lực kinh tế quá lớn, cấp trên đành hy sinh lòng tin cậy kia. Việc này gây khủng hoảng xã hội, và người ta thấy tương lai lung lay.
Hiện nay, nơi cửa rừng Aokigahara, nhiều tấm bảng đã được dựng lên, trong nhắc nhở những kẻ chán đời hãy nghĩ đến cha mẹ, anh chị em, con cái. Rằng đời là đáng quí. Rằng hãy gọi chúng tôi trước khi chết. Bên dưới là một hai số điện thoại. Trong khi đó, cảnh sát đi tuần tiễu thường xuyên hơn. Một phát ngôn viên lực lượng cảnh sát dưới chân núi cho biết, mỗi ngày họ cứu ít nhất một người, bằng cách bắt về nhốt để canh chừng. Hỏi làm sao biết người đó định tự tử, người cảnh sát này nói: “Anh ta mặc đồ rất nghiêm chỉnh”.
Gửi ý kiến của bạn