Hôm Chủ Nhật 25-7, hai nước Việt-Mỹ đã đồng ý về bản hiệp ước mậu dịch trên nguyên tắc; bản hiệp ước tạm này sẽ được soạn lại với các chi tiết pháp lý và trình lên Quốc Hội hai nước phê chuẩn, dự kiến lên Quốc Hội Mỹ vào tháng 9-1999. Hiệp ước này ảnh hưởng tới tiến trình dân chủ hóa Việt Nam ra sao" Dưới đây là nhận xét của Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng với đề nghị một chiến lược đấu tranh mới cho nhân quyền và dân chủ tại VN. Bản văn như sau.
Sau ba năm thương thảo, các giới chức Hoa Kỳ và Việt Nam cho biết có triển vọng thoả ước mậu dịch sẽ được ký kết giữa hai quốc gia trong thời gian rất ngắn tới đây. Việt Nam hy vọng rằng sau thoả ước mậu dịch sẽ là quy chế Quan Hệ Mậu Dịch Bình Thường, mà trước đây chúng ta quen gọi là quy chế Tối Huệ Quốc.
Câu hỏi mà cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ cần tự đặt ra là: chúng ta sẽ làm gì trước diễn tiến khá quan trọng này"
Theo tôi, việc ký kết thoả ước mậu dịch sẽ đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội gần và xa để thúc đẩy cho tự do và dân chủ ở Việt Nam, với điều kiện là chúng ta biết cách và chịu khó khai thác những cơ hội ấy.
Về cơ hội gần thì chúng ta có khoảng ba tháng để vận động Quốc Hội đòi hỏi những nhượng bộ cụ thể về nhân quyền từ phía Việt Nam trước khi chuẩn duyệt thoả ước mậu dịch. Theo luật pháp Hoa Kỳ, thì sau khi Hành Pháp ký kết, thương ước vẫn không có giá trị cho đến khi được Quốc Hội chuẩn duyệt. Quốc Hội có lẽ sẽ đưa vấn đề ra mổ xẻ vào trung tuần tháng 10 tới đây. Hết tuần tới Quốc Hội sẽ bãi khoá cho đến đầu tháng 9. Khi trở lại làm việc sau ngày Lễ Lao Động thì ưu tiên hàng đầu của Quốc Hội sẽ là các đạo luật về ngân sách quốc gia. Sau đó họ sẽ cần tổ chức ít ra một buổi điều trần ở Hạ Viện và một buổi ở Thượng Viện để mổ xẻ các vấn đề quanh thoả ước mậu dịch, sau đó họ mới biểu quyết.
Điều quan trọng là cộng đồng chúng ta cần làm việc chặt chẽ với các dân biểu và thượng nghị sĩ để đưa ra một danh sách gồm các vấn đề nhân quyền cụ thể mà chúng ta muốn Quốc Hội mổ xẻ trước khi biểu quyết. Danh sách của chúng ta sẽ phải rất cụ thể để Quốc Hội có thể dùng làm mực thước lượng định sự hợp tác của Việt Nam thay vì chỉ bàn cãi chung chung. Nếu Việt Nam không chứng tỏ được rằng họ đang và sẽ tiếp tục nhượng bộ về những điều kiện nhân quyền cụ thể này thì rất có thể Quốc Hội sẽ không chuẩn duyệt thoả ước.
Chế độ cộng sản ở Việt Nam rất cần thương ước này và do đó đang rất cầu cạnh Hoa Kỳ. Họ đã lùi bước liên tục trong ba năm thương thảo với hy vọng mở ra được cánh cửa mậu dịch với Hoa Kỳ. Họ kỳ vọng rằng tư bản Hoa Kỳ sẽ cứu vãn được nền kinh tế tiều tuỵ của họ. Về ý nghĩa chính trị, họ cũng mong mỏi rằng thoả ước mậu dịch sẽ ban cho chế độ chính danh: được Hoa Kỳ đối đãi ngang hàng với các quốc gia khác trên thế giới. Nếu thương ước không được Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn duyệt thì ba năm thương thảo và nhượng bộ trở thành vô nghĩa. Chính vì vậy mà chúng ta có thể tin được rằng Hà Nội sẽ ở vào thế bị ép mà phải chấp nhận nhượng bộ một số điều kiện nhân quyền để tránh tình trạng đi không rồi lại về không.
Ngoài việc tạo sức ép đối với nhà cầm quyền, chúng ta còn có thêm một thuận lợi nữa về mặt dư luận trong nước. Người dân lam lũ ít có cơ hội để nghĩ về, nói về nhân quyền. Nay thì vấn đề nhân quyền lại gắn bó với vấn đề mậu dịch giữa hai quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế và cuộc sống của người dân. Người dân tự động sẽ để ý và bàn tán về những vấn đề nhân quyền mà chế độ không bao giờ muốn cho họ nghĩ đến.
Dù Quốc Hội có chuẩn duyệt thương ước này thì vấn đề sẽ lại được đưa lên bàn mổ xẻ hàng năm, ít ra là 5 đến 6 năm nữa. Lý do là Việt Nam vẫn chưa thoả mãn những điều kiện luật định của Hoa Kỳ để trao đổi mậu dịch một cách bình thường với Hoa Kỳ. Chẳng hạn, luật pháp Hoa Kỳ đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận cho công nhân lập công đoàn độc lập và mọi ngừơi dân quyền tự do xuất cảnh thì mới được hưởng những quyền lợi của chương trình OPIC và Ex-Im Bank. Đạo luật Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế ban hành năm ngoái lại đòi hỏi Hành Pháp chế tài các quốc gia vi phạm tự do tôn giáo trầm trọng và một trong những biện pháp chế tài là rút lại chương trình OPIC và Ex-Im Bank. Cả hai chương trình này là điều kiện tiên quyết cho quy chế Quan Hệ Mậu Dịch Bình Thường; mất chúng thì cũng mất luôn quy chế Quan Hệ Mậu Dịch Bình Thường. Đó là chưa kể một số điều kiện luật định đã được gài ngay vào trong thương ước, như điều kiện về sự trong suốt trong chính quyền. Điều kiện này xuất phát từ đạo luật chống tham nhũng trong mậu dịch quốc tế của Hoa Kỳ.
Như vậy chúng ta sẽ có một chuỗi cơ hội kéo dài trong 5 đến 6 năm tới đây để áp lực Hà Nội phải nhượng bộ về nhân quyền. Vì nhu cầu sinh tồn, nhà cầm quyền Việt Nam sẽ phải nhượng bộ từng bước một trong một trình tự mà họ thường xuyên lên án: diễn biến hoà bình.
Vấn đề ngay trước mắt của cộng đồng chúng ta ở Hoa Kỳ là đề nghị một danh sách những vấn đề cụ thể làm mực thước để Quốc Hội đo lường mức độ hợp tác và tiến triển của Việt Nam mỗi lần vấn đề quan hệ mậu dịch và ngoại giao giữa hai quốc gia được đưa ra mổ xẻ trong nhiều năm tới đây. Chúng ta đang có những cơ hội rất quý báu để ép Hà Nội vào thế phải nhượng bộ về nhân quyền nếu muốn tự cứu vãn ra khỏi vũng lầy kinh tế. Chúng ta không nên bỏ lỡ những cơ hội này.
Sau ba năm thương thảo, các giới chức Hoa Kỳ và Việt Nam cho biết có triển vọng thoả ước mậu dịch sẽ được ký kết giữa hai quốc gia trong thời gian rất ngắn tới đây. Việt Nam hy vọng rằng sau thoả ước mậu dịch sẽ là quy chế Quan Hệ Mậu Dịch Bình Thường, mà trước đây chúng ta quen gọi là quy chế Tối Huệ Quốc.
Câu hỏi mà cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ cần tự đặt ra là: chúng ta sẽ làm gì trước diễn tiến khá quan trọng này"
Theo tôi, việc ký kết thoả ước mậu dịch sẽ đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội gần và xa để thúc đẩy cho tự do và dân chủ ở Việt Nam, với điều kiện là chúng ta biết cách và chịu khó khai thác những cơ hội ấy.
Về cơ hội gần thì chúng ta có khoảng ba tháng để vận động Quốc Hội đòi hỏi những nhượng bộ cụ thể về nhân quyền từ phía Việt Nam trước khi chuẩn duyệt thoả ước mậu dịch. Theo luật pháp Hoa Kỳ, thì sau khi Hành Pháp ký kết, thương ước vẫn không có giá trị cho đến khi được Quốc Hội chuẩn duyệt. Quốc Hội có lẽ sẽ đưa vấn đề ra mổ xẻ vào trung tuần tháng 10 tới đây. Hết tuần tới Quốc Hội sẽ bãi khoá cho đến đầu tháng 9. Khi trở lại làm việc sau ngày Lễ Lao Động thì ưu tiên hàng đầu của Quốc Hội sẽ là các đạo luật về ngân sách quốc gia. Sau đó họ sẽ cần tổ chức ít ra một buổi điều trần ở Hạ Viện và một buổi ở Thượng Viện để mổ xẻ các vấn đề quanh thoả ước mậu dịch, sau đó họ mới biểu quyết.
Điều quan trọng là cộng đồng chúng ta cần làm việc chặt chẽ với các dân biểu và thượng nghị sĩ để đưa ra một danh sách gồm các vấn đề nhân quyền cụ thể mà chúng ta muốn Quốc Hội mổ xẻ trước khi biểu quyết. Danh sách của chúng ta sẽ phải rất cụ thể để Quốc Hội có thể dùng làm mực thước lượng định sự hợp tác của Việt Nam thay vì chỉ bàn cãi chung chung. Nếu Việt Nam không chứng tỏ được rằng họ đang và sẽ tiếp tục nhượng bộ về những điều kiện nhân quyền cụ thể này thì rất có thể Quốc Hội sẽ không chuẩn duyệt thoả ước.
Chế độ cộng sản ở Việt Nam rất cần thương ước này và do đó đang rất cầu cạnh Hoa Kỳ. Họ đã lùi bước liên tục trong ba năm thương thảo với hy vọng mở ra được cánh cửa mậu dịch với Hoa Kỳ. Họ kỳ vọng rằng tư bản Hoa Kỳ sẽ cứu vãn được nền kinh tế tiều tuỵ của họ. Về ý nghĩa chính trị, họ cũng mong mỏi rằng thoả ước mậu dịch sẽ ban cho chế độ chính danh: được Hoa Kỳ đối đãi ngang hàng với các quốc gia khác trên thế giới. Nếu thương ước không được Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn duyệt thì ba năm thương thảo và nhượng bộ trở thành vô nghĩa. Chính vì vậy mà chúng ta có thể tin được rằng Hà Nội sẽ ở vào thế bị ép mà phải chấp nhận nhượng bộ một số điều kiện nhân quyền để tránh tình trạng đi không rồi lại về không.
Ngoài việc tạo sức ép đối với nhà cầm quyền, chúng ta còn có thêm một thuận lợi nữa về mặt dư luận trong nước. Người dân lam lũ ít có cơ hội để nghĩ về, nói về nhân quyền. Nay thì vấn đề nhân quyền lại gắn bó với vấn đề mậu dịch giữa hai quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế và cuộc sống của người dân. Người dân tự động sẽ để ý và bàn tán về những vấn đề nhân quyền mà chế độ không bao giờ muốn cho họ nghĩ đến.
Dù Quốc Hội có chuẩn duyệt thương ước này thì vấn đề sẽ lại được đưa lên bàn mổ xẻ hàng năm, ít ra là 5 đến 6 năm nữa. Lý do là Việt Nam vẫn chưa thoả mãn những điều kiện luật định của Hoa Kỳ để trao đổi mậu dịch một cách bình thường với Hoa Kỳ. Chẳng hạn, luật pháp Hoa Kỳ đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận cho công nhân lập công đoàn độc lập và mọi ngừơi dân quyền tự do xuất cảnh thì mới được hưởng những quyền lợi của chương trình OPIC và Ex-Im Bank. Đạo luật Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế ban hành năm ngoái lại đòi hỏi Hành Pháp chế tài các quốc gia vi phạm tự do tôn giáo trầm trọng và một trong những biện pháp chế tài là rút lại chương trình OPIC và Ex-Im Bank. Cả hai chương trình này là điều kiện tiên quyết cho quy chế Quan Hệ Mậu Dịch Bình Thường; mất chúng thì cũng mất luôn quy chế Quan Hệ Mậu Dịch Bình Thường. Đó là chưa kể một số điều kiện luật định đã được gài ngay vào trong thương ước, như điều kiện về sự trong suốt trong chính quyền. Điều kiện này xuất phát từ đạo luật chống tham nhũng trong mậu dịch quốc tế của Hoa Kỳ.
Như vậy chúng ta sẽ có một chuỗi cơ hội kéo dài trong 5 đến 6 năm tới đây để áp lực Hà Nội phải nhượng bộ về nhân quyền. Vì nhu cầu sinh tồn, nhà cầm quyền Việt Nam sẽ phải nhượng bộ từng bước một trong một trình tự mà họ thường xuyên lên án: diễn biến hoà bình.
Vấn đề ngay trước mắt của cộng đồng chúng ta ở Hoa Kỳ là đề nghị một danh sách những vấn đề cụ thể làm mực thước để Quốc Hội đo lường mức độ hợp tác và tiến triển của Việt Nam mỗi lần vấn đề quan hệ mậu dịch và ngoại giao giữa hai quốc gia được đưa ra mổ xẻ trong nhiều năm tới đây. Chúng ta đang có những cơ hội rất quý báu để ép Hà Nội vào thế phải nhượng bộ về nhân quyền nếu muốn tự cứu vãn ra khỏi vũng lầy kinh tế. Chúng ta không nên bỏ lỡ những cơ hội này.
Gửi ý kiến của bạn