Nền kinh tế của các quốc gia có dân chúng vững tin vào tín ngưỡng tôn giáo, đặc biệt là những tôn giáo phân biệt thiên đàng và hỏạ ngục, có chiều hướng phát triển nhanh hơn.
Nỗi sợ bị sa điạ ngục dường như kích động sự tăng trưởng kinh tế nhiều hơn là sự cám dỗ về viễn ảnh được lên thiên đàng.
Đây là kết quả của một cuộc nghiên cứu về ảnh hưởng của tôn giáo đối với kinh tế và ngược lại. Vấn đề này đã được nêu ra từ năm 1776 trong quyển sách rất nổi tiếng của kinh tế gia Adam Smith, có tựa đề là Sự Thịnh Vượng Của Các Quốc Gia, bàn về những vấn đề căn bản của chủ nghĩa tư bản.
Gần một thế kỷ trước, ông Max Weber, một nhà xã hội học cũng là nhà triết học chánh trị, suy biện rằng chính Tin Lành Cải Cách đã khơi động một cuộc cách mạng tinh thần đưa đến việc ra đời chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Ngày nay việc nghiên cứu dựa vào các số thống kê có tính cách vững chắc hơn là lối lập luận đầy ấn tượng như ngày xưa, và đôi khi khám phá mới của nó làm đảo lộn giá trị của định đề cũ. Đó là những gì mà kinh tế gia Robert Barro và nhà khoa học chính trị Rachel Mc Cleary, giảng day taị đại học Harvard, Cambridge, đang nổ lực thực hiện.
Một trong những mục đích cuả họ là tìm hiểu xem có liên hệ naò không giữûa tôn giáo và sự tăng trưởng kinh tế tại các nước. Nhiều nhà kinh tế xác quyết rằng, tôn giáo bằng cách giáo huấn tín đồ các đức tính thành thật, công bằng, tín nhiệm và liêm chính có thể giúp kinh tế thăng hoa.
Cuộc nghiên cứu chung của hai ông căn cứ một phần vào cuộc kiểm kê toàn cầu nhằm vào một số dân chúng tiêu biểu của 66 quốc gia ở 6 lục địa có cư dân, thực hiện từ năm 1981 đến năm 1997. Cuộc nghiên cứu nầy đặt câu hỏi với ít nhất 1, 000 người trong mỗi quốc gia về đạo đức căn bản và về tín ngưởng của họ. Theo tôn giáo nào" Có thường dự thánh lễ", Có được nuôi dưởng theo qui cách tôn giáo nào không" Và cùng với việc sử dụng các thông tin khác, hai ông khám phá ra rằng:
- Ở các quốc gia mà dân chúng tin có hỏa ngục thì tổng sản lượng trong nước tăng khoảng 0, 5% cao hơn mức trung bình, tỷ lệ gia tăng nầy có tính cả các yếu tố khác như giáo dục.
- Các quốc gia nầy, gồm Thổ Nhỉ Kỳ, Bangladesh, Mã Lai Á và Hồi Quốc, lànơi Hồi giáo được sùng bái nhiều nhất. Lòng tin của Hồi giáo về hỏa ngục thườngmạnh hơn tín đồ KiTô giáo. Ông Barro nói:"Hình phạt ở hỏa ngục sống động và rõ ràng, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối sống của con người hơn là các ý tưởng về thiên đàng".
- Các nước Hồi giáo lâu nay vẫn có sự tăng trưởng kinh tế ở mức trung bình theo tiêu chuẩn cuả các nước đang phát triển.
- Các nước có tín đồ dự thánh lễ nhiều thì kinh tế tăng chậm hơn các nước có tín đồ dự thánh lễ ít. Lòng tin vào Đức Chúa Trời hay thuyết luân hồi cũng không giúp gì nhiều cho sự tăng trưởng kinh tế.
- Lòng mộ đạo có khuynh hướng giảm bớt khi kinh tế phát triển. Nhưng điều này thay đổi tùy các khía cạnh của sự phát triển đó. Ví dụ nếu phát triển ở khiá cạnh giáo dục, các quan điểm về tôn giáo sẽ nẩy nở. Điều nầy trái hẳn vơí lập luận của triết gia Davit Hume và Sigmund Freud, cha đẻ khoa phân tâm học. Họ cho rằng những người có học thiên về khoa học hơn, và vì vậy, có khuynh hướng chối bỏ tín ngưỡng tôn giáo hơn. Nhưng lòng mộ đạo càng cao, người có học lại càng có khả năng và ý muốn tạo ra những ý niệm trừu tượng cần thiết cho việc hổ trơ tín ngưỡngï tôn giáo. Hay là họ có thể có sự đánh gía cao hơn về các tổ chức tập thể và các hình thức giao tiếp xã hội khác do giáo hội phát động.
- Gia dình càng đông con càng đi dự thánh lễ nhiều hơn. Tuy nhiên khi quốc gia phát triển, các gia đình trung lưu lại có ít con hơn.
- Viêc đô thị hoá có khuynh hướng làm giảm lòng mộ đạo. Có lẽ vì cư dân thành phố có nhiều vìêc khác phải làm hơn là việc đi dự thánh lễ.
- Sự hiện hữu của một quốc giáo có khuynh hướng làm gia tăng số dân chúng tham dự thánh lễ. Điều nầy có thể là do việc tín đồ có cúng dường tiền bạc cho tôn giáo họ sùng bái dưới dạng thuế giáo hội và các khỏan tài trợ khác.
- Các nước cộng sản đãthành công trong việc đàn áp tín ngưỡûng và chế ngự số người dự thánh lề, nhưng từ thập niên 1990, sau khi chủ nghĩa cộng sản sup đỗ, số người dự thánh lễ đã tăng trở lại khoản phân nữa.
- Ba Lan là một ngọai lệ, với việc giáo hội Công giáo La Ma đãõ duy trì được số tham dự thánh lễ ở mức đông đảo ngay dưới thể chế cộng sãn. Giáo hội làõbiểu tượng của sự chống đối chế độ độc tài. Nhưng từ khi chủ nghĩa cộng sản sụp đỗ, số người dự lễ có giảm bớt đôi chút.
- Các nước Hồi giáo có số tín đồ dự lễ cao nhất, cao hàng thứ nhì là các nước theo Công giáo La Mã. Nhưng, khi mức độ đa tôn giáo tại một quốc gia tăng lên, tức là có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các giáo hội, thì số người đi lễ có khuynh hướng tăng lên theo.
Nỗi sợ bị sa điạ ngục dường như kích động sự tăng trưởng kinh tế nhiều hơn là sự cám dỗ về viễn ảnh được lên thiên đàng.
Đây là kết quả của một cuộc nghiên cứu về ảnh hưởng của tôn giáo đối với kinh tế và ngược lại. Vấn đề này đã được nêu ra từ năm 1776 trong quyển sách rất nổi tiếng của kinh tế gia Adam Smith, có tựa đề là Sự Thịnh Vượng Của Các Quốc Gia, bàn về những vấn đề căn bản của chủ nghĩa tư bản.
Gần một thế kỷ trước, ông Max Weber, một nhà xã hội học cũng là nhà triết học chánh trị, suy biện rằng chính Tin Lành Cải Cách đã khơi động một cuộc cách mạng tinh thần đưa đến việc ra đời chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Ngày nay việc nghiên cứu dựa vào các số thống kê có tính cách vững chắc hơn là lối lập luận đầy ấn tượng như ngày xưa, và đôi khi khám phá mới của nó làm đảo lộn giá trị của định đề cũ. Đó là những gì mà kinh tế gia Robert Barro và nhà khoa học chính trị Rachel Mc Cleary, giảng day taị đại học Harvard, Cambridge, đang nổ lực thực hiện.
Một trong những mục đích cuả họ là tìm hiểu xem có liên hệ naò không giữûa tôn giáo và sự tăng trưởng kinh tế tại các nước. Nhiều nhà kinh tế xác quyết rằng, tôn giáo bằng cách giáo huấn tín đồ các đức tính thành thật, công bằng, tín nhiệm và liêm chính có thể giúp kinh tế thăng hoa.
Cuộc nghiên cứu chung của hai ông căn cứ một phần vào cuộc kiểm kê toàn cầu nhằm vào một số dân chúng tiêu biểu của 66 quốc gia ở 6 lục địa có cư dân, thực hiện từ năm 1981 đến năm 1997. Cuộc nghiên cứu nầy đặt câu hỏi với ít nhất 1, 000 người trong mỗi quốc gia về đạo đức căn bản và về tín ngưởng của họ. Theo tôn giáo nào" Có thường dự thánh lễ", Có được nuôi dưởng theo qui cách tôn giáo nào không" Và cùng với việc sử dụng các thông tin khác, hai ông khám phá ra rằng:
- Ở các quốc gia mà dân chúng tin có hỏa ngục thì tổng sản lượng trong nước tăng khoảng 0, 5% cao hơn mức trung bình, tỷ lệ gia tăng nầy có tính cả các yếu tố khác như giáo dục.
- Các quốc gia nầy, gồm Thổ Nhỉ Kỳ, Bangladesh, Mã Lai Á và Hồi Quốc, lànơi Hồi giáo được sùng bái nhiều nhất. Lòng tin của Hồi giáo về hỏa ngục thườngmạnh hơn tín đồ KiTô giáo. Ông Barro nói:"Hình phạt ở hỏa ngục sống động và rõ ràng, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối sống của con người hơn là các ý tưởng về thiên đàng".
- Các nước Hồi giáo lâu nay vẫn có sự tăng trưởng kinh tế ở mức trung bình theo tiêu chuẩn cuả các nước đang phát triển.
- Các nước có tín đồ dự thánh lễ nhiều thì kinh tế tăng chậm hơn các nước có tín đồ dự thánh lễ ít. Lòng tin vào Đức Chúa Trời hay thuyết luân hồi cũng không giúp gì nhiều cho sự tăng trưởng kinh tế.
- Lòng mộ đạo có khuynh hướng giảm bớt khi kinh tế phát triển. Nhưng điều này thay đổi tùy các khía cạnh của sự phát triển đó. Ví dụ nếu phát triển ở khiá cạnh giáo dục, các quan điểm về tôn giáo sẽ nẩy nở. Điều nầy trái hẳn vơí lập luận của triết gia Davit Hume và Sigmund Freud, cha đẻ khoa phân tâm học. Họ cho rằng những người có học thiên về khoa học hơn, và vì vậy, có khuynh hướng chối bỏ tín ngưỡng tôn giáo hơn. Nhưng lòng mộ đạo càng cao, người có học lại càng có khả năng và ý muốn tạo ra những ý niệm trừu tượng cần thiết cho việc hổ trơ tín ngưỡngï tôn giáo. Hay là họ có thể có sự đánh gía cao hơn về các tổ chức tập thể và các hình thức giao tiếp xã hội khác do giáo hội phát động.
- Gia dình càng đông con càng đi dự thánh lễ nhiều hơn. Tuy nhiên khi quốc gia phát triển, các gia đình trung lưu lại có ít con hơn.
- Viêc đô thị hoá có khuynh hướng làm giảm lòng mộ đạo. Có lẽ vì cư dân thành phố có nhiều vìêc khác phải làm hơn là việc đi dự thánh lễ.
- Sự hiện hữu của một quốc giáo có khuynh hướng làm gia tăng số dân chúng tham dự thánh lễ. Điều nầy có thể là do việc tín đồ có cúng dường tiền bạc cho tôn giáo họ sùng bái dưới dạng thuế giáo hội và các khỏan tài trợ khác.
- Các nước cộng sản đãthành công trong việc đàn áp tín ngưỡûng và chế ngự số người dự thánh lề, nhưng từ thập niên 1990, sau khi chủ nghĩa cộng sản sup đỗ, số người dự thánh lễ đã tăng trở lại khoản phân nữa.
- Ba Lan là một ngọai lệ, với việc giáo hội Công giáo La Ma đãõ duy trì được số tham dự thánh lễ ở mức đông đảo ngay dưới thể chế cộng sãn. Giáo hội làõbiểu tượng của sự chống đối chế độ độc tài. Nhưng từ khi chủ nghĩa cộng sản sụp đỗ, số người dự lễ có giảm bớt đôi chút.
- Các nước Hồi giáo có số tín đồ dự lễ cao nhất, cao hàng thứ nhì là các nước theo Công giáo La Mã. Nhưng, khi mức độ đa tôn giáo tại một quốc gia tăng lên, tức là có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các giáo hội, thì số người đi lễ có khuynh hướng tăng lên theo.
Gửi ý kiến của bạn