Thương ước được ký bởi Đại Diện Mậu Dịch Hoa Kỳ Charlene Barshefsky và Bộ Trưởng Mậu Dịch CSVN Vũ Khoan giây lát trước một buổi lễ ở Vườn Hồng có sự tham dự của Clinton và nhiều cựu chiến binh chiến trường VN hiện đang làm việc trong Quốc Hội, gồm cả Thượng Nghị Sĩ John McCain (Cộng Hòa-Arizona).
“Từ quá khứ cay đắng, chúng ta trồng hạt giống cho một tương lai tốt đẹp hơn,” theo lời Clinton. “Thương ước này là thêm một nhắc nhớ rằng các cựu thù có thể đến với nhau, tìm điểm chung trong một cách có lợi cho tất cả dân của họ, để quá khứ qua đi và nắm lấy tương lai, để tha thứ và hòa giải.”
Thương ước này, hình thành sau 4 năm thương thuyết, sẽ cho hàng VN vào thị trường Mỹ cùng điều kiện với hầu hết các nước khác. Bù lại, VN đồng ý hạ thấp rào thuế quan và các rào cản mậu dịch khác đối với nhiều sản phẩm Hoa Kỳ, cả nông sản và dịch vụ như ngân hàng.
Clinton đã bỏ cấm vận VN năm 1994, bình thường ngoại giao năm 1995 và mở lại tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội năm 1996. Thương ước, nếu Quốc Hội Mỹ chấp thuận, sẽ giảm thuế quan Mỹ trên các sản phẩm VN từ mức trung bình hiện nay khaong 40% tới còn chưa đầy 3%, cùng tỉ lệ Hoa Kỳ áp dụng cho hầu hết các nước.
Vì CSVN vẫn là một nước cộng sản, quan hệ mậu dịch với Mỹ còn phải chịu màn bỏ phiếu thường niên tái cấp trên Quốc Hội cho tới khi nào VN được gia nhập Tổ Chức Mậu dịch Thế Giới WTO, điều có thể mất nhiều năm nữa.
Vài hãng Mỹ, có cả Cargill, Caterpillar và Nike, đã đầu tư tại VN, và các phân tích gia tin là các hãng như Nike nhiều phần sẽ tăng sản lượng từ các xưởng nơi đây một khi mà thuế quan giảm.
Thương ước dự kiến còn bị chống bởi các vị dân cử từng chống việc cấp Hoa Lục quan hệ bình thường mậu dịch vĩnh viễn. Các công đoàn Mỹ cũng chống thương ước với các nước có thợ lương thấp như Hoa Lục và VN vì sợ thợ Mỹ mất việc, đặc biệt là ở kỹ nghệ giày và may dệt.
Theo bản tường trình mới đây của Ngân hàng Thế Giới, thương ước có thể tăng hơn gấp đôi mức xuất cảng của VN vào Mỹ tới 768 triệu đô, từ mức 338 triệu đô năm 1996.
Nó cũng có thể tăng đầu tư quốc tế tại VN, vốn đã sụt còn 500 triệu đô một năm từ các cao điểm 2.8 tỉ đô năm 1996 và 1997, khi Hà Nội được nhìn như là con hổ kinh tế Á Châu kế tiếp.