Nhiều tháng trôi qua tại nhiều bệnh viện, anh đang tiếp tục chiến đấu, bằng pháp Thiền và củng cố niềm tin để giúp anh có được một tương lai khoẻ mạnh. "Tôi đang tập trung vào việc tôi sẽ sống đời tôi như thế nào trong những năm sắp tới, khi căn bệnh này biến mất", anh nói thế.
Renee Flynn đang chiến đấu với một căn bệnh đường tiêu hoá mà cô đã bị giải phẩu cắt đi khúc ruột già và một phần ruột non. Từ năm 1998, cô đã xuýt chết hai lần trên bàn mổ. Cái gì giúp cô sống còn, cô nói, chính là niềm tin. "Thiên Chúa đã có chương trình cho đời tôi, tôi phải tin vào Ngài, mọi việc sẽ tốt đẹp", Flynn, 52, đã nói vậy.
Những chuyện như thế này đã khiến các nhà nghiên cứu cố gắng để đo lường sự hiệu quả của niềm tin và sự cầu nguyện đối với những căn bệnh hiểm nghèo và sự bình phục.
Một bản phân tích của 42 công trình nghiên cứu đã cho thấy những người thường xuyên tham dự những thánh lễ tôn giáo sống lâu hơn những người không tham dự. Gần đây, một bản nghiên cứu 30 năm về 2,600 người đã được đăng trong Annals of Behavioral Medicine cho thấy những người tham dự thánh lễ hàng tuần đã có một cuộc sống khoẻ mạnh hơn và giữ được sức khoẻ tốt hơn những người ít hoặc không tham dự.
Nhiều bản nghiên cứu khác đã cho thấy sự tương quan của tôn giáo với áp suất thấp, bình phục nhanh hơn từ những căn bệnh trầm tư, hay ghiền ma túy, và có khả năng kháng sinh mạnh hơn. Những nhà nghiên cứu cũng nhận xét là, đây cũng không phải là bằng chứng của sự huyền bí, vì kết quả có thể vì những người có niềm tin thường lạc quan và được nhiều hỗ trợ từ các hội đoàn.
Một đề tài gây nhiều tranh luận đã được hai bác sĩ John Astin và William Harris nghiên cứu, sức mạnh cứu chữa của sự cầu nguyện. Bác sĩ Astin, thuộc trường đại học y khoa Maryland, đã xem xét 23 công trình nghiên cứu và nhận thấy rằng hơn một nửa, sự cầu nguyện đã ảnh hưởng một cách tích cực lại cho các bệnh nhân. Bác sĩ Harris, một nhà nghiên cứu tại Bệnh viện St. Luke tại tiểu bang Kansas, đã xem xét một công trình nghiên cứu trong đó các thiện nguyện viên đã cầu nguyện cho gần 500 bệnh nhân bị bệnh tim, mà những bệnh nhân này không hề hay biết. 500 bệnh nhân khác với cùng tình trạng sức khoẻ nhưng không được cầu nguyện. Bác sĩ Harris khám phá rằng, những bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện đã có 11% tránh được sự nguy hiểm khi họ ở tại bệnh viện.
"Sự kiện này là một con số lớn trên phương diện thống kê, đã đủ bảo đảm rằng đây không phải là một sự ngẫu nhiên", Bác sĩ Harris đã nói.
Ngay trong tháng này, những nhà nghiên cứu đã khám phá rằng sự cầu nguyện đã liên quan đến sự thành công gấp đôi trong việc thụ thai. Một nhóm đàn ông và đàn bà được cầu nguyện mà không hề hay biết, đã có 50% tỷ lệ thụ thai, so sánh với 26% tỷ lệ thụ thai của những người trong nhóm không được cầu nguyện.
Nhưng những nhà nghiên cứu khác lại bác bỏ những kết quả này. Một sự xem xét mới đây cho thấy chỉ có 5 công trình nghiên cứu về sự ảnh hưởng của việc cầu nguyện đối với y học được thực hiện, mà trong những công trình nghiên cứu này, cả người nghiên cứu lẫn những người tham gia đều không biết ai ở trong nhóm nào, ai được cầu nguyện và ai không. Và chỉ có hai trong năm công trình nghiên cứu này cho thấy có sự ảnh hưởng tốt - một sự ảnh hưởng quá yếu. Những nhà chỉ trích cũng cho biết là họ đã tìm thấy nhiều lầm lỗi trong hai công trình nghiên cứu này.
Với sự gia tăng của những công trình nghiên cứu về niềm tin và sức khoẻ, những người tin vào đấng tối cao hy vọng rằng các bác sĩ sẽ chú tâm đến tôn giáo của các bệnh nhân và ghi nhận vào bảng giám định sức khoẻ của họ. Nhiều người còn muốn các bác sĩ giới thiệu nhiều hơn các bệnh nhân đến với các vị lãnh đạo tinh thần. Bác sĩ David Larson, chủ tịch của International Center for the Intergration of Health and Spiritual, đã nói " Những vị lãnh đạo tinh thần có thể giúp các bệnh nhân - và các bác sĩ - về những vấn đề như "Tại sao sự việc lại xảy ra như thế " và "Thiên Chúa đang nói gì"".
Nhưng các bác sĩ khác lo ngại rằng những sự giới thiệu như thế từ các bác sĩ, rất nguy hại. Linh mục Raymond Lawrence Jr., giám đốc chương trình mục vụ tại New York Presbyterian University Hospital tại Connell và Columbia, quan ngại rằng việc kết hợp giữa cầu nguyện và sức khoẻ tốt đi ngược lại hầu hết các giáo luật.
"Sự việc mà chúng ta gom góp 50 hay 100 người và họ có thể làm xiêu lòng Thiên Chúa với hy vọng giúp cho những người này sống và những người khác chết là một điều không tưởng, đi ngược lại nhiều tôn giáo", ông nói "Những người này đang tạo thành một tôn giáo mới. Bạn có thể cho đó là một tôn giáo, ở đó Thiên Chúa như là Quốc hội Hoa Kỳ. Bạn càng vận động nhiều, bạn càng có cơ may được thông qua các sự việc".
Và khi sự cầu nguyện không có kết quả, sự thất vọng có thể mang đến nguy hại cho bệnh nhân, nhiều bác sĩ nhận xét như thế. Các bệnh nhân có thể nghĩ là những căn bệnh của họ là kết quả của sự cầu nguyện chưa đủ, thiếu niềm tin hay đang bị Thiên Chúa trừng phạt.
Cái "bóng tối của tôn giáo" này, nhưng một số người đã gọi, đang được bắt đầu xem xét. Một công trình nghiên cứu đầu tiên về loại này, được đăng trong Archive of Internal Medicine số tháng 8, đã khám phá trong 595 bệnh nhân, 55 tuổi hoặc già hơn, những người có tư tưởng bi quan - rằng Thiên Chúa đang bỏ họ và phạt họ - đã có từ 19 đến 28% sẽ chết, hơn là những người có tư tưởng lạc quan.
Một lý do khác không nên mang tôn giáo vào với y khoa là sự vi phạm về quyền riêng tư của bệnh nhân, bác sĩ Richard Sloan đã nói. "Đã có những bằng chứng cho thấy những phụ nữ có con khi còn trẻ sẽ tránh được một vài trường hợp ung thư hơn là những phụ nữ lớn tuổi", ông nói "nhưng sự quyết định để thành lập một gia đình và khi nào thì không thuộc thẩm quyền của các bác sĩ."
Hiện nay, vấn đề tâm linh dường như đang len lõi vào lãnh vực y khoa - một tin mừng cho những gia đình như gia đình của bà Margaret Fee, 79 tuổi, cư dân của Brooklyn.
Gia đình bà Fee đã hoàn toàn tin tưởng vào vị lãnh đạo tinh thần kể từ ngày bà bị đưa vào bệnh viện khẩn cấp vì một cơn đau bụng, kết quả là bà đã phải ở lại bệnh viện 4 tháng." Thật là một điều tốt khi có người để trút bầu tâm sự", con gái bà Fee, Mary Fee-Greco, 42, đã nói "Và đối với sự cứu rỗi của mẹ tôi, chúng tôi phải có niềm tin. Tôi tin rằng đó là điều đã giữ mẹ tôi ở lại trên trần gian này".