Luật sư Terri Weir đang lo hồ sơ của bà Đông cho biết đây chỉ là quyết định tạm và mẹ con bà vẫn đứng trước nguy cơ phải quay trở lại Việt Nam sau thời hạn một năm nếu đơn xin tị nạn không được chấp thuận.
Bà Đông 65 tuổi là vợ của ông Lâm Văn Mậu, một trưởng ấp thời Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1994, khi ông Lâm được qua định cư tại Hoa Kỳ trong chương trình HO, bà cùng 5 người con đã bị từ khước không được đi theo. Suốt nhiều năm sau đó, ông Lâm liên tục khiếu nại.
Cuối cùng nhờ sự can thiệp của nhiều giới chức dân cử và Ngoại Giao, bà Đông cùng đứa con trai út 16 tuổi được phép tới Hoa Kỳ với lý do nhân đạo là cho xum họp với ông Lâm đang trong tình trạng hấp hối vì bệnh ung thư phổi. Ngày 14 Tháng Bảy, bà Đông cùng đứa con trai đặt chân xuống phi trường Houston. Nhưng bà không kịp gặp mặt chồng vì ông Lâm đã qua đời 4 ngày trước đó.
Bà Đông không những không được gặp mặt chồng mà còn bị đặt trước nguy cơ phải cùng đứa con trai quay về Việt Nam. Thời hạn cư trú hợp pháp trên đất Hoa Kỳ của hai mẹ con bà chỉ hiệu lực tới ngày 08 tháng Tám. Nếu tới ngày đó mà quyền tạm trú của hai mẹ con không được gia hạn thì họ sẽ phải hồi hương.
Văn phòng chi nhánh của Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển tại Houston, Texas, đã đứng ra vận động cho mẹ con bà Đông được phép tới Hoa Kỳ, lại tiếp tục vận động để giành quyền ở lại Hoa Kỳ cho mẹ con bà. Nỗ lực của UBCNVB được đông đảo đồng hương người Việt tại Texas tiếp sức.
Trong gần một tháng kể từ ngày 14 tháng Bảy, nhiều đài phát thanh Việt Ngữ đã lên tiếng về trường hợp mẹ con bà Đông trong khi hàng ngàn người cùng ký tên trong các bản thỉnh nguyện yêu cầu giới hữu trách cho phép mẹ con bà ở lại với tư cách tị nạn.
Giám Đốc Trung Tâm Dịch Vụ S.O.S. ở tại Houston, một trong 11 chi nhánh của UBCNVB, Ông Lê Văn Trưóc cho biết là mẹ con bà Đông có đủ tư cách pháp lý để được hưởng quy chế tị nạn. Dù vậy, INS mới là cơ quan có thẩm quyền quyết định vấn đề này.
Qua thông báo của luật sư, quyết định ngày 08 Tháng Tám của INS về trường hợp mẹ con bà Đông chỉ có hiệu lực kéo dài thời hạn tạm trú tại Hoa Kỳ thêm một năm để luật sư do UBCNVB móc nối có thời gian để nộp đơn xin quy chế tị nạn cho họ.
Bà Đông đã lên tiếng trong một chương trình truyền thanh là mẹ con bà “thà chết ở đây còn
hơn trở về Việt Nam”. Ông Trước cũng cho biết “Ngay lúc này, nỗi sợ hãi bị ngược đãi của bà càng lớn hơn. Vì đúng như bà đã nói trên đài phát thanh và đúng như mọi người đều đã biết rõ về nguy cơ đó, bà khó tránh khỏi bị tống vào nhà tù ngay khi đặt chân trở lại Việt Nam”.
Cho nên mong mỏi của mẹ con bà là sẽ được phép ở lại, và hơn nữa, sẽ được phép đón 4 người con còn ở Việt Nam qua đây cùng đoàn tụ. Việc mẹ con bà Đông không được phép cùng ông Lâm qua Hoa Kỳ năm 1994 lúc này đã cho thấy rõ ràng là do những thủ tục rối rắm của INS làm trì trệ. Lề lối làm việc phức tạp này khiến gia đình bà bị chia cắt suốt 6 năm qua và chồng bà đã phải trút hơi thở cuối cùng trong sự cô đơn lạnh lẽo không có vợ con bên cạnh.
Theo Ông Trước, hàng ngày văn phòng ông nhận trung bình trên mười cú điện thoại từ cộng đồng người Việt tị nạn địa phương xác định sự giúp đỡ về mọi mặt tài chánh cũng như tinh thần cho mẹ con bà Đông. Nhiều người cho biết họ sẵn sàng tìm việc làm và lo chi phí sức khoẻ cho bà và trợ giúp mọi phí tổn cho đứa con nhỏ của bà tới trường. Mới đây người con của bà đã được cho nhập học tại một trường trung học ở địa phương.
Sau khi tiếp xúc với các giới chức INS, luật sư Weir cho biết đại để như sau: “Dù tôi nghĩ rằng họ thấy rất rõ nguy cơ sẽ bị trả thù và nỗi sợ của họ hoàn toàn có lý, các qui tắc và luật lệ vẫn có thể được cơ quan INS suy diễn theo chiều hướng khác”. Tuy nhiên, vị luật sư này xác định “Hiện chưa có gì rõ rệt cho thấy INS sẽ bác khước đơn xin thường trú của họ”.
Dù trước mắt mẹ con bà Đông là biết bao khó khăn chồng chất, quyết định ngày 08 Tháng Tám vừa qua của INS đã đem đến cho họ một thời khoảng an lành tương đối để tiếp tục nỗ lực cho mong mỏi của họ. Theo luật sư Weir, bà Đông đang tất bật với việc thỉnh nguyện cuối cùng cho gia đình bà được hưởng qui chế tị nạn tại đây. Trong 25 năm qua, bà đã từng trải đủ mọi cay cực do chính sách thù nghịch của chế độ Cộng Sản: Chồng bà bị đưa vào tù, nhà cửa vườn tược bị tịch thu và bản thân bà cùng các con bị đuổi khỏi quê quán để sống trong đày ải tại một vùng kinh tế mới xa xôi. Kế tiếp, gia đình bà lại bị chia cắt vì những thủ tục bàn giấy buộc mẹ con bà phải tiếp tục kiếp sống nạn nhân ở Việt Nam trong khi chồng bà thui thủi một mình với tuổi già chồng chất tại H Kỳ. Mong mỏi của bà lúc này không chỉ phù hợp với những qui định pháp lý dành cho người tị nạn mà còn gợi nhắc tình trắc ẩn của lòng nhân đạo trước ước nguyện hết sức nhỏ nhoi của riêng bà là được gần gũi với phần mộ của người chồng xấu số.
* Lược thuật theo Chunhua Zen Zheng (Houston Chronicle)