Hôm nay,  

Nghiên Cứu, Khám Phá Mới: Bệnh Tim Và Tiểu Đường

20/03/200400:00:00(Xem: 6856)
Những Khám Phá Mới Về Vai Trò Phức Tạp Của Insulin Trong Bệnh Tiểu Đường
Ts Morris F. White tại Viên Nghiên Cứu Hughes Medical Instute nghiên cứu một phân tử liên hệ giữa mập phì, tác dụng của insulin ngoại biên và chức năng tế bào beta sản xuất insulin. Tìm hiểu những đường hóa học của insulin là để biết những đường hóa học có thể dùng hay điều chỉnh có lợi cho việc điều hòa mức đường trong máu và đường hóa học nào không nên đụng vào vì có thể gây nguy hiểm cho cơ thể.
Chúng ta đã biết insulin sản xuất bởi tế bào beta trong tuyến lá mía đóng vai trò quan trọng trong việc điều đường trong máu. Nhưng, insulin cũng điều khiển phôi thai trưởng thành và phát triển, sinh sản và điều hành no đói.
Thay đổi điều hành những đường hóa học kể trên gây rối loạn cho cơ thể. Ts White và các đồng nghiệp đã khám phá những điểm nồng cốt trong vai trò insulin kiểm soát phản ứng hoá học. Ðó là những bạch đản tên là IRS1, IRS2 đều là những thụ thể insulin.
IRS1 kiểm soát cơ thể tăng trưởng và những chức năng ngoại biên của insulin. Trong khi IRS2 kiểm soát não tăng trưởng, kiểm soát cân lượng cơ thể, ổn định nội môi của đường và khả năng sinh sản của phụ nữ. Chính đường hóa học (pathway) của IRS2 là đinh chốt liên hệ giữa mập phì, hiện tượng kháng insulin và suy tế bào beta và là nguyên nhân gây bệnh tiểu đường loại 2.
IRS2 còn làm trung gian cho chức năng của insulin trong cơ thịt, gan và mỡ và cũng là căn bản cho hoạt động của tế bào beta. Cũng chính IRS2 là một phân tử liên kết giúp giải thích sự liên hệ giữa mập phì, tính chất kháng của insulin và cũng có thể mở đầu cho khám phá cơ nguyên của tiểu đường loại 2.
Science, December 5, 2003
Nguyên Tắc Mới Điều Chế Thuốc Chủng Chống Ung Thư
Các khoa học gia tại Viện Massachusetts Institute of Technology vừa phát minh một loại thuốc chủng lấy từ những mẩu DNA. Thuốc chủng DNA khác với những thuốc chủng cũ không chứa toàn thân siêu vi trùng mà chỉ chứa những mảnh di thể từ siêu vi trùng hay vi trùng. Vì tính chất đặc thù, thuốc chủng này có khả năng phòng ngừa nhiều bệnh nhưng ít bị thuốc công phạt. Hơn nữa thuốc chủng còn có thể ngừa bệnh được lâu dài.
Những mảnh DNA trong thuốc chủng ngừa sẽ được chích thẳng vào tế bào người. Nhờ phương cách này mà tế bào dùng DNA giúp hệ thống miễn nhiễm con người nhận ra dễ dàng, sẽ sản xuất kháng thể và nhờ đó hệ thống miễn nhiễm của chúng ta có thể tấn công và tiêu diệt siêu vi trùng hay vi trùng một cách hiệu quả hơn. Chính những mẩu DNA trở lại hạch bạch huyết cho nên giúp cơ thể sinh sản tế bào miễn dịch đặc thù sản xuất kháng thể chống vi trùng hay siêu vi trùng.
Hy vọng dùng thuốc chủng DNA còn có thể áp dụng tiêu diệt tế bào trong việc điều trị ung thư.

Journal Nature Materials, February 2004
Liên Hệ Tuổi Tác Và Tử Vong Khi Mổ Tim
Bs John Spertus tại Đại Học Y Khoa Missouri-Kansas City trong tường trình nghiên cứu ảnh hưởng tuổi tác và mổ tim by-pass cho 690 bệnh nhân người già.
Trong số bệnh nhân này, 156 bệnh nhân bệnh tim trên 75 tuổi.
Kết quả cho thấy tử vong bệnh nhân người già cao hơn khoảng 2.6% so với người trẻ. Người già trên 75 tuổi thường chết nhiều hơn so với người trẻ dưới 75 tuổi.
Theo Bs Spertus thì những người cứ bị đau ngực hoài có thể là ứng viên cho giải phẫu tim mạch. Tuy nhiên bệnh nhân cần bàn luận kỹ với bác sĩ chuyên môn trong trường hợp bệnh nhân không mổ loại tạo hình mạch (angioplasty) và để stent trước khi quyết định mổ bypass.
Nguy cơ tử vong tăng cao trong trường hợp bệnh nhân bị bệnh phổi hay tiểu đường. Trường hợp nguy hiểm khác như bệnh nhân bị tê liệt vì tai biến mạch máu não phải mổ tim bypass. Bệnh nhân cần lưu ý chọn lựa bệnh viện mổ tim trên 200 trường hợp mổ hàng năm, tức là bệnh viện có nhiều kinh nghiệm khi mổ tim.
Bệnh nhân cần gập nhóm chuyên viên giải phẫu trước khi giải phẫu và nên hỏi tất cả những gì cần biết như những biến chứng sau khi giải phẫu kể cả tử vong liên hệ tuổi tác.
Journal of the American College of Cardiology, February 2004
Viên Thuốc “Đa Dạng và Đa Dụng” giảm nguy cơ bệnh tim mạch 80%
Bs Harvey B. Simon, chủ biên báo Harvard Men’s Health Watch vừa bình luận công dụng viên thuốc “Đa Dạng va` Đa Dụng” (PolyPill) giảm nguy cơ bệnh tim mạch và tai biến mạch máu não.
Kết quả thử nghiệm lâm sàng cho thấy thuốc giúp ích giảm nguy cơ những bệnh tim mạch hơn 80% và có thể kéo dài đời sống bệnh nhân hơn 11 năm.
Viên thuốc đa dạng và đa dụng kể trên chứa 6 thứ thuốc cả thẩy trong đó có môt thuốc statin, 3 thuốc trị cao máu, thuốc folic acid và một lượng nhỏ aspirin.
Tổng hợp những thuốc kể trên giúp chống những biến chứng như cơn đau tim-heart attacks và tai biến mạch máu não, tức là giảm thiểu cholesterol xấu trong máu, giảm hiện tượng máu đông, giảm áp xuất máu và giảm mức homocystein trong máu.
Theo kết quả nghiên cứu của nhóm Harvard Health Watch thì hy vọng viên thuốc kể trên có thể cho dùng những ai trên 55 tuổi hoặc những bệnh nhân còn trẻ nhưng đã bị bệnh tim mạch.
Mặc dầu vậy, những điều kiện giúp bảo vệ sức khỏe trường thọ như ăn uống dinh dưỡng lành mạnh, tập thể dục thường xuyên hoặc những kế hoạch khác bảo vệ sức khỏe vẫn cần phải được lưu ý, không thể bỏ qua.
Harvard Men’s Heath Watch NewsLetter, March 2004
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: Tran.Ngo@verizon.net; Diễn đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/Group/DienDanYKhoa/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
Cách đâu 30-40 năm, lúc người tỵ nạn Việt mới định cư ở Mỹ và bắt đầu làm quen với các tập tục kể những tập quán về y tế ở Mỹ, trong y giới Mỹ cũng như các nước tây phương khác đang tranh cãi rất nhiều về chỉ định có nên cắt bao quy đầu theo thông lệ (routine circumcision) cho trẻ em sơ sinh hay không. Thuật ngữ “circumcision”, gốc latinh “circumcisio”. Từ "cắt bao quy đầu" xuất phát từ các từ Latin circum và caedo (circum: “xung quanh”; caedo: “tôi cắt”), có nghĩa đen là "cắt xung quanh". Từ epitome trong tiếng Hy Lạp cũng có nguồn gốc từ gốc có nghĩa là "cắt" hoặc "vết mổ". Trong tiếng Hebrew (Do Thái), phép cắt bao quy đầu được gọi là “peritomy”, xuất phát từ tiếng Hy Lạp peritomy.
Người ta vẫn thường nói “You are what you eat” (Những gì bạn ăn thể hiện bạn là ai). Nhưng có lẽ sẽ đúng hơn khi nói rằng những gì chúng ta ăn sẽ khiến chúng ta có những cảm xúc gì, bởi vì những tiến bộ trong lĩnh vực dinh dưỡng tâm thần học cho thấy chế độ dinh dưỡng đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của chúng ta.
Đặng Đình Bách: Tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết cộng đồng và câu chuyện đau buồn về sự bất công cần phải khắc phục tại Việt Nam...
Việc thuốc trị béo phì Zepbound mới được thông qua đã bổ sung thêm lựa chọn cho các loại thuốc giúp giảm cân, nhưng nó cũng đi kèm với những thách thức về chi phí và khả năng tiếp cận, giống như các loại thuốc giảm cân khác trong cùng nhóm. Các loại thuốc trong nhóm này gồm chất chủ vận (agonists), hay chất bắt chước các hormone tự nhiên trong ruột có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể và tín hiệu đói phát ra từ não. Nhưng các loại thuốc đã được chuẩn thuận, các phiên bản tổng hợp của các hormone này, là những phân tử có kích thước lớn nên quá trình sản xuất khá tốn kém và mất thời gian. Điều này khiến cho thuốc có giá cả đắt đỏ và ngày càng khan hiếm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.