Hôm nay,  

Bệnh Cảm Khác Với Bệnh Cúm

25/10/200300:00:00(Xem: 6463)
Bây giờ dịch cúm sắp tới. Nhưng chúng ta cũng không quên bệnh cảm thường kéo dài từ mùa thu năm nay sang mùa xuân sang năm. Cảm và cúm thường hay lẫn lộn.
Hàng năm cứ vào mùa thu, khi học trò đã bắt đầu tụ tập trong trường học và trời trở lạnh, hoặc lúc mọi người thường tụ họp trong nhà với nhau, là lúc siêu vi trùng cảm dễ truyền nhiễm từ người nọ sang người kia. Lúc này người ta dễ bị bệnh cảm. Mỗi năm, tại Hoa Kỳ, người ta bị cảm trở đi trở lại nhiều lần. Cảm rất thông thường: người lớn bị cảm từ 2 tơí 4 lần mỗi năm, còn trẻ em tương đối nhiều hơn, từ 6 tớí 8 lần mỗi năm. Phụ nữ lứa tuổi từ 20 tới 30, cũng dễ bị bệnh cảm nhiều hơn đàn ông, có lẽ là vì họ tiếp xúc thường xuyên với con nít khi bị mắc bệnh cảm.
Nguyên nhân bệnh cảm:
Có khoảng hơn 200 siêu vi trùng sinh ra bệnh cảm. Nhất là siêu vi trùng như rhinoviruses sinh ra cảm nặng. Những siêu vi trùng khác như parainfluenza hay siêu vi trùng respiratory syncitial virus gây cảm nhẹ cho người lớn, nhưng lại gây cảm nặng cho trẻ em, nhất là khi chúng tấn công cuống phổi hay lá phổi của trẻ em.
Rhinoviruses (rhin, theo chữ Hy-lap nghĩa là nose, mũi), 30 tới 35 phần trăm là nguyên nhân cuả bệnh cảm truyền cho người lớn ,xuất hiện vào khoảng đầu thu, mùa xuân hay mùa hè. Có hơn 110 loại siêu vi trùng rhinovirus, rất thích hợp vơí nhiệt độ 91F, là nhiệt độ của màng nhầy trong mũi chúng ta.
Coronaviruses cũng sinh ra bệnh cảm cho người lớn, thường vào mùa đông hay đầu xuân. Có tới 30 loại siêu vi trùng này, nhưng trong số đó chỉ có 3 hay 4 siêu vi trùng tấn công được loài người.
Có khoảng 10-15 phần trăm bệnh cảm do những siêu vi trùng khác, như:
Adenoviruses, coxsackieviruses, echoviruses, orthomyxoviruses (kể cả loại cúm influenza A và B), paramyxoviruses (kể cả siêu vi trùng parainfluenza), siêu vi trùng hô hấp syncytial virus và enteroviruses.
Khoảng 30 tới 50 phần trăm bệnh cảm của người lớn, có thể do siêu vi trùng sinh ra, nhưng chưa ai xác định được là siêu vi trùng gì. Phần khác, có rất nhiều siêu vi trùng gây bệnh cho trẻ em, nhưng cho tới lúc này cũng chưa ai biết rõ là loại siêu vi trùng gì.
Người mắc bệnh cảm bị nhiễm siêu vi trùng cảm, nhưng cũng có thể bị nhiễm thêm nhiều vi trùng khác. Đôi khi siêu vi trùng cảm có thể phát hiện siêu vi trùng herpes simplex, làm lở mũi, lở miệng.
Khí hậu có sinh ra cảm không"
Thời tiết thay đổi thất thường như nóng quá hay lạnh quá có lẽ không có ảnh hưởng là bao nhiêu cho sự nẩy sinh bệnh cảm, hoặc làm cho bệnh cảm năng thêm. Vấn đề tập thể dục, dinh dưỡng, hay bệnh thịt dư trong cổ họng (tonsillar hypertrophy) của trẻ em, đều không có liên hệ gì với bệnh cảm.
Triệu chứng bệnh cảm
Sau khi siêu vi trùng xâm nhập vào cơ thể, thì khoảng 1 tơí 3 ngày sau là thấy có triệu chứng. Bình thường kéo dài khoảng tuần lễ. Có tới 25 phần trăm bệnh kéo dài 2 tuần lễ. Đối với những ai hút thuốc lá, triệu chứng cảm sẽ nặng hơn.
Những triệu chứng bệnh cảm gồm có:
. Chảy nước mũi, nước mũi, nghẹt mũi, hắt xì,đau tai, ngứa và khô cổ họng, và ho.
. Ăn không ngon, mệt mỏi.
. Khả năng vị giác và khứu giác có thể bị giảm, khan giọng, nói như nghẹt mũi.
. Người lớn có thể bị nóng sốt nhẹ, nhưng trẻ em có thể bị nóng nhiều hơn.
. Triệu chứng cảm sinh ra là do phản ứng miễn nhiễm của cơ thể, lúc vi trùng xâm nhập vào mũi và cổ họng.
Hiện giờ không có thử nghiệm để định bệnh cảm, mà bác sĩ chỉ dựa theo triệu chứng để định bệnh.
Phòng ngừa cảm :
Bệnh cảm khá thông thường, khó mà tìm cách tránh được. Tuy nhiên cũng xin trình bày vài phương pháp căn bản để tránh cảm:
. Nên tránh không gần người đang bị cảm, nhất là trong 3 ngày đầu, vì lúc đó , siêu vi trùng dễ truyền nhiễm nhiều nhất.
. Nên rửa tay nếu lỡ chạm vào da người có bệnh, hoặc ngay cả sau khi bạn và người mắc bệnh cùng rờ vào một vật gì.
. Không nên để ngón tay vào mũi hay mắt của bạn.
Nếu bị cảm, bạn cũng nên có bổn phận tránh truyền nhiễm bệnh sang người khác, chẳng hạn như:
. Khi ho hay hắt xì, nên lấy khăn giấy che mũi, che miệng.
. Rửa tay sau khi ho hay hắt xì.
. Nếu bạn bị cảm , thì nên tránh xa những người bị bệnh xuyễn hay bệnh phổi kinh niên, đừng lây bệnh sang họ, nhất là trong 3 ngày đầu khi mới bị cảm, vì đó là lúc truyền bệnh dễ nhất.
Chữa bệnh cảm:
. Cần nhất là phải uống nhiều nước hay nước trái cây. Uống nhiều nước cho mũi và cổ họng khỏi bị khô, và để giúp cho đờm ,nước mũi ra ngoài dễ dàng. Không nên uống cà phê, nước trà hay nước ngọt như colas, vì có chất caffeine dễ làm cơ thể bị khô nước. Xúc miệng bằng nước muối ấm, ngâm cough drops, hay bơm throat spray,để có thể giúp khỏi đau cổ họng và giảm ho (thuốc mua tự do nhưng nên hỏi dược sĩ ).

. Thuốc giảm đau nhức mình mảy, như : acetaminophen (tylenol), aspirin (chỉ dùng cho người lớn, không dùng cho con nít), hoặc ibuprofen (Advil hay Motrin: không được dùng nếu bị yếu bao tử hay lở loét bao tử).
. Nếu bị ho và nghẹt mũi thì nên dùng dùng thuốc chống nghẹt (decongestants) hay thuốc kháng histamines (antihistamines), có bán tự do. Có những thuốc kháng histamines mới, không buồn ngủ, nhưng cần toa bác sĩ, thí dụ như: texofenadine (Allergra), loratidine (Claritine) và cetirine (Zyrtec). Những thuốc này rất mắc tiền , chữa bệnh dị ứng rất tốt, nhưng có lẽ không giúp gì được nhiều cho bệnh cảm. Hình như thuốc kháng histamines cũ như diphenhydramine (Benadryl) và chlorpheniramine (Chlor-Trimeton), mặc dầu làm cho bệnh nhân buồn ngủ, nhưng lại có hiệu quả hơn và làm giảm nghẹt mũi và ho, khá hơn. (Bạn nên hỏi ý kiến dược sĩ hay bác sĩ trước khi mua thuốc hay dùng thuốc, vì đôi khi cũng có phản ứng phụ cho một số bệnh nhân, chẳng hạn như khi bị bệnh cao huyết áp nay bị bệnh co mạch máu tim -ischemic heart disease- thì không nên uống thuốc cảm nếu có chứa nhiều chất pseudoephedrine).
Bệnh cảm không chữa bằng thuốc trụ sinh, trừ khi bệnh nhân bị nhiễm thêm vi trùng khác.
Biến chứng
Bình thường thì bệnh cảm sẽ dần dần bình phục trong vài tuần lễ, dù uống thuốc hay không uống thuốc. Nhưng siêu vi trùng cảm có thể bám vào bộ phận hô hấp, làm nhiễm trùng, như viêm xoang, nhiễm trùng tai và viêm cuống phổi, cần phải dùng thuốc trụ sinh. Bạn cũng nên đi gặp Bác sĩ ngay, nếu có những biến chứng sau đây:
. Triệu chứng cảm thấy bất thường, có vẻ trầm trọng hơn, nóng sốt nhiều hơn.( 102 độ F hay cao hơn). Người đờ đẫn.
. Vùng xoang (sinus) bị đau hay cảm thấy đau răng.
. Đau lỗ tai, nổi hạch ở cổ.
. Khó thở.
. Ho nhiều hơn, mặc dầu thấy triệu chứng cảm lại có vẻ bớt hơn. Ho ra đờn xanh, vàng, là nhiễm thêm vi trùng, làm viêm xoang, hay viêm cuống phổi.
. Cảm có thể làm thành xuyễn. Nếu đang bị hen, xuyễn, hay viêm cuống phổI kinh niên, thì bệnh có thể nặng hơn, và kéo dài nhiều tuần lễ.
Bệnh cảm của trẻ em
Hầu hết trẻ em dưới năm tuổi bị cảm thường xuyên- trung bình 6 tới 8 lần một năm. Lớn hơn 6 tuổi, sẽ ít bị cảm hơn. Tới tuổi vị thành niên, sẽ bị cảm từ 2 tới 4 lần một năm, giống như người lớn.
Bất cứ trẻ nít nào bị nóng và có triệu chứng cảm đều phải đưa đi gặp bác sĩ. Trọng tâm của vấn đề chữa chạy cho con nít là làm cho trẻ em được dễ chịu hơn và làm giảm bệnh nghẹt mũi. Nên dùng máy làm ẩm không khí để cho mũi trẻ khỏi bị khô. Trong trường hợp trẻ đã lớn tuổi , có thể dùng thuốc nhỏ mũi hoặc rửa mũi , để làm cho thông mũi (nên hỏi ý kiến Bác sĩ). Cũng giống như người lớn, có thể dùng acetaminophen để chữa nóng và đau nhức. Ibuprofen (Children’s Motrin hay Children’s Advil) cũng dùng được để chữa nóng và đau nhức cho trẻ em nhỏ tuổi. Bạn không nên cho uống aspirine, vì nếu lỡ con bạn không phải bị bệnh cảm mà là cúm, thì có thể sinh ra Reye’s syndrome, làm chết người. Reye’s syndrome là loại bệnh hiếm có, có thể làm hư gan, viêm màng óc, và tử vong, 30 phần trăm).
Sau hết, chúng ta thử tìm hiểu vài tập tục khác chữa cảm:
. Uống nhiều Sinh tố C chưa được chứng minh là dùng để trị cảm hay phòng ngừa cảm. Nhưng có thể uống một liều lượng tối thiểu hằng ngày.
. Thuốc có chất kẽm (Zinc lozenges) chưa biết rõ có thể làm bệnh cảm chóng bình phục hay không, vì thử nghiệm chưa có kết quả cụ thể.
. Nên tránh đắp rượu cồn (alcohol), khi bị lạnh.
. Ăn súp gà, không phải để chữa bệnh cảm, mà giúp cơ thể bệnh nhân có thêm nước.
. Mặc aó ấm, không phải để tránh cảm cúm, mà còn có thể đề phòng bệnh viêm sưng phổi.
Nói tóm lại, mùa thu và mùa đông là thời điểm bị bệnh cảm, cũng chùng vào thời điểm của bệnh cúm. Chỉ còn ít tuần lễ nữa, cúm sẽ hoành hành. Nhưng cúm khác với cảm. Cúm do siêu vi trùng Influenza A, B, và đôi khi C, còn cảm thì do 200 siêu vi trùng khác, nhiều nhất là Rhinoviruses như đã trình bày ở trên. (Tham khảo: American Lung Association- Cold and Flu- 1997; The National Institute of Allergy and Infectious Diseases of the National Institutes of Health -The common cold- 1998 ;D. Rosin: The common cold and your sinuses, 1998).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Ðiện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: Tran.Ngo@verizon.net; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.