Hôm nay,  

Nguyên Nhân Và Điều Trị Bệnh Liệt Dương

08/11/200300:00:00(Xem: 7112)
Bệnh nhân người Việt hải ngoại bây giờ rất tự nhiên khi bàn luận hay tham khảo trong phòng mạch về vấn đề bất lực hay liệt dương.
Hiện nay ở Mỹ, 52% đàn ông từ 40 tới 70 tuổi, bị bất lực. Bệnh bất lực trầm trọng nhất chiếm 10%. Bệnh trung bình 25% và bất lực loại nhẹ 17%. Ở tuổi 40, bất lực hoàn hoàn chiếm 5% và ở 70 tuổi, bất lực hoàn toàn lên tới 15%.
Bệnh bất lực vì liệt dương khác với những nguyên nhân bất lực khác như tình dục hết ham muốn, xuất tinh sớm hay bệnh Peyronie.
Nghiên cứu bệnh lý liệt dương cho thấy bình thường dương vật là bộ phận kết hợp nhiều mạch máụ. Dương vật gồm thể xốp niệu đạo (corpus spongiosum) và thể hang dương vật (corposa cavernosa). Thể hang dương vật gồm nhiều mô soắn bao bọc bởi những mô đàn hồi. Động mạch từ ngoài tới thẳng mô soắn rồi sau đó máu sẽ chảy ra ngoài từ tĩnh mạch nằm dưới mô đàn hồi.
Khi bị liệt dương, bắp thịt xung quanh động mạch hay mô soắn co mạnh. Chất nitric oxide tiết ra từ 1) hệ thần kinh không tiết kích thích tố adrenaline và hệ thần kinh không tiết kích thích tố acetylcholine (nonadrenergic-noncholinergic), và từ 2) biểu mô (endothelium) quanh mạch máu.
Chất nitric oxide sẽ vào thể hang dương vật (corpora cavernosa) kích thích phân hóa tố guanylate cyclase để sinh hóa chất cyclic guanosine monophosphate (cGMC). Đây là một hợp chất quan trọng làm bắp thịt bao quanh động mạch và mô soắn mềm nhũn. Nhờ hiện tượng kể trên, máu sẽ dồn vào dương vật dễ dàng hơn. Hiện tượng xảy ra giống như miếng éponge chứa đày nước. Đồng thời máu căng ép tĩnh mạch làm máu từ tĩnh mạch không thoát khỏi và làm dương vật cứng lại.
Sau khi tinh trùng thoát ra ngoài, kích thích tố catecholamines và phân hóa tố phosphodiesterase sẽ tiết ra và phân hóa cGMP. Bị bất lực do liệt dương là bởi thiếu chất cGMC. Thuốc Viagra (sildenafil) có nhiệm vụ chống tiêu hủy cGMC nghĩa là giúp cho cường dương.
Tuy nhiên, bất lực vì liệt dương có thể do một số bệnh liên quan mạch máu. Chẳng hạn bệnh xơ cứng động mạch (atherosclerotic occlusion) thường thấy ở bệnh nhân tiểu đường. Bệnh co mạch máu làm liệt dương cũng thấy trong bệnh co mạch máu, cứng thành mạch máu, hoặc vì hút thuốc lá hay do biến chứng của một số thuốc như thuốc điều trị cao huyết áp loại Beta-blockers, Clonidine, MethylDopa hay thuốc lợi tiểu Diuretics. Ngoài ra, những thuốc trị bao tử như Cimetadine, thuốc trị suy tim như Digoxin cũng làm liệt dương.
Bệnh liệt dương có thể do bệnh thần kinh gây ra, hoặc bệnh xơ cứng rải rác (multiple sclerosis) tủy sống, hay bệnh giây thần kinh ngoại biên do tiểu đường (diabetic neuropathy).
Bệnh liệt dương do thương tích tủy sống, thương tích hậu giải phẫu vùng xương chậu, thí dụ sau khi giải phẫu tuyến nhiếp hộ tuyến , mổ bắp thịt hậu môn, cắt ruột già, hay xương chậu bị gẫy bể.
Liệt dương có thể do bệnh làm suy giảm kích thích tố sinh dục, như khi testosterone bị xuống thấp hay do bệnh tuyến giáp trạng và ngay cả vì lý do tuổi già.
Bệnh liệt dương do vấn đề tâm ly’ thường thấy ở những người còn trẻ mà đã bi bất lực, hay do tình trạng cảm súc đặc biệt chi phối. Có nhiều người bất lực vì lo nghĩ, lo lắng quá nhiều trong công việc làm ăn, hay bị bệnh tâm thần. Khi bị ưu trầm, bệnh nhân không thiết gì trong công việc làm, không nghĩ gì đến những diễn biến xung quanh, không thấy đời vui thú, mất cân lượng, và ăn uống không thấy ngon miệng. Bệnh nhân mất ngủ, hay đôi khi ngủ quá độ. Bệnh nhân không còn chú ý đến công việc, mệt mỏi, hết năng lực. Bệnh nhân không thiết gì đến chuyện xung quanh, không chú ý đến công việc, không nghĩ ngợi và hay quên. Đôi khi có tư tưởng chán đời…

Bệnh nhân thường phải khám nghiệm để tìm hiểu độ nhậy cảm của dương vật hay bị hư hại thần kinh nơi dương vật. Khám bệnh có thể phát giác hiện tượng lưu thông trong động mạch cổ tay hay khủyu chân. Hoặc hình dáng dương vật trong bệnh Peyronie.
Thử nghiệm gồm đếm máu phân tích nước tiểu, đo mỡ trong máu, hay đo creatinine và xác định chức năng gan. Cũng nên đo mức testosterone trong máu hay nếu cần đo chức năng nội tiết.
Đôi khi còn phải dùng phương pháp thử nghiệm tâm lý nữa.
Điều trị bất lực gồm nhiều cách khác nhau như 1.) Tâm lý trị liệu, 2) Thuốc Viagra (Sidenafil), nhưng thuốc có thể gây nguy cơ cho bệnh nhân tim mạch nhất là trường hợp đang hay sẽ dùng nitroglycerinẹ. Có thể tử vong. 3) Đặt Alprostadil trong ống tiểu, do bác sĩ niệu khoa hướng dẫn và 4) Dùng máy hút hay giải phẫu cũng do bác sĩ niệu khoa thực hiện.
Riêng về bệnh tim mạch, bác sĩ sẽ hướng dẫn bệnh nhân tập thể dục hay cần hoạt động nhẹ để tăng cường sinh lý. Tập thể dục hay hoạt động thường xuyên công việc trong nhà sẽ giúp dưỡng khi’ tăng cao và kích thích tim mạch mạnh mẽ hơn. Đặc biệt những bệnh nhân bị bệnh tim mạch lâu năm mà không bao giờ chịu hoạt động hay tập thể dục.
Khi luyến ái, nhịp tim sẽ tăng nhanh khoảng 120-130 mỗi phút và áp xuất máu tâm thu khoảng 180, áp xuất tâm trương cao 10. Cho nên bệnh nhân bị cao huyết áp máu nên gặp bác sĩ chuyên môn tim mạch thử nghiệm, phải an toàn trước khi dùng thuốc Viagra.
Thuốc Viagra giúp cường dương với xác xuất cao khoảng 74%. Bệnh nhân bị cao huyết áp hay bệnh tim mạch có hiệu quả 70% khi dùng Viagra. Còn những người bị bệnh tiểu đường hay vừa mổ nhiếp hộ tuyến có hiệu quả tương đối thấp hơn nữa.
Công phạt của Viagra gồm những triệu chứng như nhức đầu, mặt đỏ phầng, nghẹt mũị Đôi khi bị đầy hơi trong bụng, mắt hoa và chóng mặt. Áp xuất máu cũng bị hạ thấp khoảng 8-10 mm thuỷ ngân. Phản ứng Viagra với thuốc trị tim mạch nitroglycerine có thể gây tử vong.
Hiện có hai thuốc mới điều trị liệt dương sắp được FDA chấp thuận. Thuốc thứ nhất tên là Tadalafil do hãng Lily vừa được Âu Châụ cho dùng. Thuốc thứ hai tên là Levitra (vardenavil) cũng sắp tung ra thị trường. Hai thuốc mới kể trên tắc dụng lâu dài hơn Viagra. Cả 3 thuốc Tadalafil, Levitra và Viagra đều giảm phân hóa tố phosphodiesterase 5 (PDE-5), tức là đều tác dụng vào cơ trơn trong dương vật, gây thư dãn, làm rộng cơ trơn và giu’p máu dồn vào nhiều hơn.
Còn vài thuốc khác nữa hiện đang trong vòng nghiên cứu điều trị liệt dương như: thuốc uống phentolamine, thuốc Apomorphine đặt dưới lưỡi, thuốc Potassium channel modulators, chất kìm hãm biểu mô (endothelin antagonists), yếu tố gene growth factor, sản phẩm prostaglandin, PD hay kìm hãm dopaminergic, kích thích tố đồng dạng melanocyte (MSH) hoặc VIPs (Vasoactive intestinal polypeptides).
1)R.Shabsigh, Postgraduate Medicine May 2000
2) TA Miller, Am Fam Physicians, 61: 95, 2000
3) RW Lewis, Patient Care, January 2000
4) Healthdays News, 2003
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: Tran.Ngo@verizon.net; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tập đoàn Nhân sâm Hàn Quốc tại Hoa Kì (KGCUS), nơi sản xuất thương hiệu nhân sâm số một thế giới CheongKwanJang, tự hào giới thiệu thức uống thảo dược có ga HSW kết hợp hồng sâm 6 năm tuổi, tới các khách hàng quan tâm đến sức khỏe tại WaBa Grill, một trong những chuỗi nhà hàng hàng đầu chuyên phục vụ món cơm lành mạnh
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.