Hôm nay,  

Tin Mới Y Học: Chữa Trị Và Ngừa Bệnh Viêm Gan B

24/06/200600:00:00(Xem: 2674)

Khi gặp một bệnh nhân Mỹ gốc Á Châu muốn xin thử máu tổng quát thì nên thử nghiệm thêm truy tầm viêm gan A, B, và C. Thử máu bao gồm truy tầm kháng thể viêm gan A, kháng thể viêm gan C. Riêng phần viêm gan B gồm có HBsAg (hepatitis B Surface Antigen), HBsAB (hepatitis B surface antibody).

Thử nghiệm HBcAb không nằm trong thử nghiệm truy tầm viêm gan B, nhưng là muốn tìm hiểu: liệu bệnh nhân trong quá khứ đã từng bị viêm gan B" Nếu kết quả thấy bệnh nhân có dương tính thử nghiệm HBsAg, tức là bệnh nhân bị siêu vi trùng viêm gan B kinh niên (mãn tính). Những thử nghiệm tiếp nối sẽ là: đếm số lượng HBV DNA. Mục đích muốn biết sức sinh sản siêu vi trùng viêm gan B.

Còn thử nghiêm HBeAg và HBeAb giúp định bệnh nhân thuộc loại HBeAg dương tính (wild type viêm gan B mãn tính) hay loại sớm đột biến HBeAg âm tính (precore mutant varieties). Mục đích xác định dương hay âm tính HBeAg là giúp tính toán thời gian điều trị viêm gan B mãn tính. Đo lường phân hóa tố ALT và AST là để tìm hiểu độ viêm của gan do siêu vi trùng viêm gan B gây ra. Bệnh nhân có thể bị nhiễm siêu vi trùng viêm gan B nhưng không phát hiện triệu chứng.

Bởi vậy khi bệnh nhân gốc Á Châu muốn thử máu tổng quát thì cần truy tầm thêm viêm gan, là bởi ở giai đoạn này triệu chứng viêm gan B có thể chưa xuất hiện. Muốn biết diễn biến viêm gan B ra sao thì phải đếm HBV DNA. Sinh thiết gan giúp bác sĩ định đoạt viêm gan hay chai gan. Tuy nhiên, không nhất thiết bất cứ ai cũng phải làm sinh thiết. Bệnh nhân viêm gan B có số lượng HBV DNA cao và ALT bình thường phải làm sinh thiết gan. Bệnh nhân có lượng HBV DNA cao nhưng ALT bình thường vẫn có nguy cơ chai gan và viêm gan, cần điều trị.

Theo FDA thì hiện giờ có 5 thứ thuốc được phép điều trị viêm gan B:

1) interferon-alpha-2b,

2) lamivudine (Epivir-HBV),

3) adefovir divipoxil (Hepsera),

4) entecavir (Baraclude) và

5) peginterferon-alpha-2a.

Ngoài ra, bệnh nhân cần truy tầm ung thư gan. Thường truy tầm ung thư gan bằng siêu âm. Có thể đo alpha fetoprotein nhưng không đặc thù. (Reference: Family Practice Recertifiation, April 2006).

Thêm những nghiên cứu Chăm Sóc Lâm Sàng Bệnh Nhân Viêm Gan B:

1. Cuộc hội thảo do FDA vừa đề ra ngày April 8, 2006, tại NIH Campus, Bethesda, Maryland, bao gồm những vấn đề sau đây trong việc điều trị bệnh nhân viêm gan B:

a) Viêm gan B vẫn còn là bệnh gây tàn phế và tử vong cho người Mỹ và nhiều dân tộc khác trên thế giới,

b) Đề tài nhắm vào siêu vi trùng B sinh sản và và diễn biến kinh niên hay mãn tính.

c) Miễn dịch viêm gan B,

d) Phản ứng tương tác giữa siêu vi trùng viêm gan B và cơ thể bệnh nhân,

e) Những thử nghiệm thuốc mơí điều trị viêm gan B.

2. Trong Hội Thảo lần thứ 41 tại Hội Họp Bệnh Gan, Âu Châu, 2006, cho biết hiện nay có 3 trong 5 thứ thuốc trị viêm gan B mãn tính được chú ý nhiều nhất: adenovir, entecavir, và peginterferon alfa-2a.

Kết quả những nghiên cứu cho thấy càng điều trị viêm gan B kinh niên lâu bao nhiêu càng có hậu quả tốt bấy nhiêu, đặc biệt nhắm vào 3 thuốc an toàn như adenovir, entecavir và peginterferon- alfa-2a. Điều trị viêm gan B mãn tính là để ngừa biến chứng chai gan và ung thư gan. Vài kiểu mẫu điều trị hiện thời là phải lưu ý ngăn chặn triệt để HVB DNA, càng mạnh, càng lâu, càng tốt. Nhiều thuốc mới khác đang trên đà thử nghiệm.

Ngừa Nhiễm Siêu Vi Trùng Viêm Gan B

Cơ Quan Chích Thuốc Phòng Ngừa và Cơ Quan Phòng Bệnh Hoa Kỳ vừa đưa ra khuyến cáo mơí phòng ngừa bệnh viêm gan B cho người Mỹ. Trước hết là tất cả mọi phụ nữ khi mang bầu có nguy cơ bệnh viêm gan B, đều phải chích ngừa.

Những phụ nữ trước đó giao hợp với một người khác, đã từng truy tầm và điều trị bệnh phong tình, hay người tình bị viêm gan B kháng nguyên dương tính, đều phải chích ngừa viêm gan B. Ngoài ra còn phải chỉ dẫn cho bệnh nhân viêm gan B cách tránh lây bệnh cho người khác.

Tất cả mọi trẻ em sống ở Mỹ đều phải chích ngừa viêm gan B. Trẻ em mới sinh có cân lượng trên 2,000 grams, có mẹ sản phụ bị dương tính kháng nguyên viêm gan B, đều phải chích ngừa viêm gan B, trước khi xuất viện.

Tùy theo từng trưòng hợp, chẳng hạn nếu trẻ có cân lượng chưa tới 2,000grams hay người mẹ có viêm gan kháng nguyên âm tính, có thể chờ chích ngừa sau khi ra khỏi bệnh viện. Bác sĩ cần viết giấy ghi rõ trẻ sơ sinh phải chích ngừa sau khi xuất viện và phải có bản chính kết quả thử nghiệm chứng nhận người mẹ có kháng nguyên viêm gan B âm tính. Trẻ em chích ngừa viêm gan B sau khi xuất viện không được quá 2 tháng sau khi sinh. Chích ngừa viêm gan B riêng rẽ hay tổng hợp với thuốc chích ngừa khác phải ghi rõ vào sổ, đặc biệt mũi chích cuối cùng phải quá 24 tháng. Phải chích ngừa 4 mũi theo thơì gian liên tục, nhưng mũi thuốc đầu tiên sẽ chích khi trẻ sơ sinh còn nằm trong nhà thương và mũi cuối có thể chích trong vòng 6 tơí 12 tháng sau khi sinh, đặc biệt trong trường hợp bệnh nhân còn nhỏ sống trong vùng có nguy cơ cao nhiễm siêu vi trùng viêm gan B. Thí dụ dân bản xứ Alaska, dân sống quanh vùng đảo Thái Bình Dương hay những di dân gốc Á Châu, Phi Châu hay bất cứ di dân từ những vùng nào khác có tỉ lệ nhiễm viêm gan B cao.

Phải chích ngừa viêm gan B cho trẻ em và thiếu niên dưới 19 tuổi nếu trước đây chưa từng được chích ngừa viêm gan B. (American Family Physicians, 73: 1839, 2006).

Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915;E-mail: nmtran@hotmail.com; Y Dược Ngày Nay: www.yduocngaynay.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.