Hôm nay,  

Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội Và Sài Gòn Trước Năm 1975

01/02/200300:00:00(Xem: 8164)
Nhân Dịp Tết Quí Mùi, xin thân mến kính chúc quí độc giả Một Năm Mới An Khang va` Thịnh Vượng. Cũng nhân dịp đầu năm ôn cố tri tân, chúng tôi xin mạn phép trình bày Tiểu Sử Y Khoa Đại Học Saigon và Hà Nội trước Năm 1975. Trong cuốn Đặc San Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Khoa, Anaheim 2002, nhiều người đặc biệt lưu ý bài viết của bác sĩ Đào Hữu Anh, Giáo sư Y-Khoa và cũng là cựu Khoa Trưởng trường Y Khoa Đại Học Sài gòn trong thời điểm 1970-1972. Giáo sư Đào Hữu Anh diễn tả rất tỉ mỉ tiểu sử Trường Đại Học Y-Khoa Hà Nội từ 1902-1954 và đặc biệt Trường Y-Khoa Đại Học Sài gòn trong thời gian 1954-1975.
Y-Khoa Đại Học Hà Nội được thành lập từ năm 1902 do nghị định ký ngày 8 tháng Giêng 1902 bởi Toàn quyền Paul Doumer tại Hà Nộị Trường Y Khoa thời đó có tên là Trường Y-Khoa Đông Dương (Ecole de Medecine de l’Indochine). Mục đích chính thiết lập trường thời đó là bởi Đô Hộ Pháp muốn đdào tạo y-sĩ cho 3 nước Việt, Miên, và Làọ Họ muốn chuyên viên y tế Việt, Mên Lào phải tự tay săn sóc, chữa bệnh cho người Việt, Mên, Làọ
Khoa Trưởng đầu tiên của trường Y Khoa là Giáo sư Alexandria Yersin, cũng là người đã có công khám phá bệnh dịch hạch. Lúc đầu trường Y Khoa chỉ có 29 sinh viên trong số 105 người phải thi tuyển. Sau khi học 4 năm, tốt nghiệp, được cấp bằng Y Sĩ phụ Tá (Medecin auxilliaire). Năm 1914, thêm phân khoa Dược và trường được đổi tên mới là Trường Cao Đẳng Chuyên nghiệp Y Dược Khoa (Ecole de Plein Exercice de Médecine et de Pharmacie). Chương trình học tăng thêm một năm thành 5 năm.
Kể từ năm 1923, ở Việt Nam, muốn vào Y-khoa phải có bằng tú tài Pháp và sau khi đậu Y-Khoa sẽ được phát bằng Bác sĩ Y-Khoa Pháp. Còn nếu có bằng tú tài bản xứ thì khi ra trường chỉ được cấp bằng Y Sĩ Đông Dương (Medecin Indochinois). Trường Y-Khoa Hà Nội lúc đầu toạ lạc tại ấp Thái Hoà, ngoại ô của thành phố Hà Nộị Sinh viên y khoa thực tập trong những nhà thương như Phủ Doãn và Bạch Maị Sau đó khoảng cuối thập niên 20, trường Y-Khoa được dọn về đường Bobillot, tức là đường Lê Thánh Tôn ở Hà Nộị Năm 1936, trường được đổi tên là Đại Học Y-Khoa (Faculté de Médecine).
Năm 1947, chi nhánh Y-Khoa Đại Học Hà nội được thiết lập ở Sàigòn để đào tạo sinh viên y khoa cho miền Nam Việt Nam.
Nhưng, cho tới năm 1954, khi đất nước chia đôi, phần lớn bộ phận Y Khoa Hà Nội đã di cư vào Nam. Lúc đầu, trường Y Khoa Sài gòn đặt trụ sở tại 28 Đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn. Đây là nơi tụ tập giảng đường và thư viện của trường. Khởi thủy, ban giáo huấn gồm những giáo sư Việt và Pháp, nhưng sau đó phần lớn các giáo sư Pháp lần lượt trở về cố xứ. Bởi vậy, sau năm 1962, Văn Bằng Y-Khoa Bác Sĩ của trường Sài gòn hết được người Pháp công nhận tương đương với văn bằng Y-khoa Pháp. Tuy nhiên, cũng kể từ đây, có thể coi như bắt đầu chấm dứt thể chế Y-Khoa thuộc địa Pháp, mặc dầu ảnh hưởng vẫn còn sâu đậm, nhất là tiếng Pháp vẫn còn là thứ ngôn ngữ chính thức trong trường Y Khoa của người Việt. Tưởng cũng nên lưu ý ở thời điểm này, nếu ai có con em may mắn được học qua trung học Pháp sẽ rất thuận lợi và dễ dàng thông suốt chương trình y khoa. Nhưng ngược lại, trong buổi giao thời này, những sinh viên Việt học chương trình Việt, vì vấn đề ngôn ngữ, khó trở thành những sinh viên y khoa ưu tú. Vô tình hay hữu ý, y khoa dùng Pháp ngữ đã cản trở bước tiến của rất nhiều sinh viên Việt Nam.

Về phương diện thực tập bệnh lý, những cơ sở Y Khoa Sài Gòn bao gồm một số nhà thương như bênh viện Chợ Rẫy, nhà thương Bình Dân, Nhi Đồng, Từ Dũ, Hồng Bàng, Chợ Quán, Đô Thành Sài Gòn, và Nguyễn văn Học. Còn những nơi thực tập khoa học căn bản đóng đô ở Cơ Thể Học Viên, Bệnh Viện Sài gòn, Viện Pasteur,Phòng Sinh lý Y khoa, Cơ thể Bệnh lý và Mô học, v..v...
Sau này, chương trình học y-khoa Việt Nam bao gồm 7 năm: một năm Tiền y-khoa (Pre-Med) tức là P.C.B (Physics, Chemistry và Biology: Vật lý, Hóa học và Sinh lý học) học tại trường Đại Học Khoa Học, và 6 năm về Y-khoa tại trường Y-Khoa. Sau đó, sinh viên phải trình luận án cho văn bằng Y Khoa Bác Sĩ, một chương trình rập khuôn của y khoa Pháp.
Nhưng, kể từ năm 1966, bắt đầu có những đổi thaỵ
Trung Tâm Giáo Dục Y-Khoa được rời về trường ốc mới xây cất ở Đại Lộ Hồng Bàng, do Mỹ đài thọ Chương trình y-khoa biến dạng với nhiều bộ môn y khoa mới, theo lối Mỹ, yểm trợ bởi Hội Y Sĩ Hoa Kỳ (American Medical Association). Kể tữ đây, lối học từ chương được thay thế bởi phương pháp y khoa tiến bộ: học để hiểu. Chương trình y khoa Việt Nam mơi tổng hợp 2 quan điểm: y-khoa như một nghệ thuật của Pháp và y-khoa là một khoa học của Mỹ. Sự hồi phục chương trình mới tổng hợp Việt-Pháp-Mỹ đã ngẫu nhiên đào tạo một thế hệ Y sĩ cứng cáp hơn, nhất là về bộ môn khoa học y-khoa căn bản, đặc biệt ở thế hệ 1968-1975. Bằng chứng là những bác sĩ y khoa tốt nghiệp trong thời điểm sau này đã hội nhập y khoa ở hải ngoại dễ dàng hơn so với những thế hệ đàn anh.
Lại nữa, đổi mới đã kéo theo một thể chế dân chủ trong việc bầu bán Hội Đồng Khoa trong Đại Học Y-Khoa Việt Nam, kể từ tháng Giêng năm 1967. Cũng trong thời điểm 1970, sinh viên y khoa muốn loại bỏ chế độ tuyển lựa nội trú thi cử, một phương pháp huấn luyện nội trú không đồng đều, rất bất lợi cho khả năng y sĩ Việt Nam. Hãy nhìn những chế độ nội trú tại những nước tân tiến như ở Mỹ, Anh đã đưa mức tài năng các y sĩ lên cao nhất nhì thế giớị Ngày nay, quay lại việc tuyển lựa sinh viên nội trú trong thực trạng taị Việt Nam kể tư ønăm 2000, có thể là một dấu hỏi thụt lùi với nền y-khoa Pháp, chưa chắc đã phải là một ưu điểm, tiến bô..
Tóm tắt, theo tài liệu do Giáo sư Đào Hữu Anh ghi lại thì Y Khoa Hà Nội đào tạo khoảng 648 người bao gồm Y sĩ phụ Tá, Y sĩ Đông Dương và Bác sĩ Y Khoa. Tổng số luận án Y Khoa Bác sĩ do trường Đại Học Y-Khoa ở Sài Gòn cấp, kể từ năm 1947 tới năm 1975, khoảng 2380, nghĩa là 2380 y sĩ ra trường liên tiếp trong 3 chương trình Y-khoa Pháp, Viêt-Pháp và Việt-Pháp-Mỹ.
References:
1. Giáo sư Đào Hữu Anh: Vài dòng tóm lược lịch sử Y Khoa Đại Học Hà nội (1902-1954) và Y Khoa Đại Học Sài Gòn (1947-1975) trong Đặc San Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ, Anaheim, August 10-12, 2002.
2. Bác sĩ Tôn Thất Cần: Vài nhận xét về tổ Chức Y Khoa Đại Học tại Việt Nam, cho đến năm 1975 trong Đặc San Đại Hội Y Nha Dược Sĩ, Anaheim, 2002.
3. Bác sĩ Nguyễn Đức Tuệ: Giáo sư Đào Đức Hoành không còn nữa, trong Đặc San Đại Hội Y Nha Dược Sĩ, Anaheim 2002.
Tran Mạnh Ngo, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; E-mail: Tran.Ngo@Verizon.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
Theo Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA), khoảng 9 trong số 10 toa thuốc ở Hoa Kỳ có kê thuốc đồng dạng (thuốc generic) của một loại thuốc nguyên gốc (brand name). Tuy nhiên, có thể sẽ có nhiều người không biết là loại thuốc họ mua ở hiệu thuốc là thuốc đồng dạng hay thuốc nguyên gốc. Vậy hai loại thuốc này có gì khác biệt không? Và nếu có, nó có quan trọng không?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.