Hôm nay,  

Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội Và Sài Gòn Trước Năm 1975

01/02/200300:00:00(Xem: 8179)
Nhân Dịp Tết Quí Mùi, xin thân mến kính chúc quí độc giả Một Năm Mới An Khang va` Thịnh Vượng. Cũng nhân dịp đầu năm ôn cố tri tân, chúng tôi xin mạn phép trình bày Tiểu Sử Y Khoa Đại Học Saigon và Hà Nội trước Năm 1975. Trong cuốn Đặc San Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Khoa, Anaheim 2002, nhiều người đặc biệt lưu ý bài viết của bác sĩ Đào Hữu Anh, Giáo sư Y-Khoa và cũng là cựu Khoa Trưởng trường Y Khoa Đại Học Sài gòn trong thời điểm 1970-1972. Giáo sư Đào Hữu Anh diễn tả rất tỉ mỉ tiểu sử Trường Đại Học Y-Khoa Hà Nội từ 1902-1954 và đặc biệt Trường Y-Khoa Đại Học Sài gòn trong thời gian 1954-1975.
Y-Khoa Đại Học Hà Nội được thành lập từ năm 1902 do nghị định ký ngày 8 tháng Giêng 1902 bởi Toàn quyền Paul Doumer tại Hà Nộị Trường Y Khoa thời đó có tên là Trường Y-Khoa Đông Dương (Ecole de Medecine de l’Indochine). Mục đích chính thiết lập trường thời đó là bởi Đô Hộ Pháp muốn đdào tạo y-sĩ cho 3 nước Việt, Miên, và Làọ Họ muốn chuyên viên y tế Việt, Mên Lào phải tự tay săn sóc, chữa bệnh cho người Việt, Mên, Làọ
Khoa Trưởng đầu tiên của trường Y Khoa là Giáo sư Alexandria Yersin, cũng là người đã có công khám phá bệnh dịch hạch. Lúc đầu trường Y Khoa chỉ có 29 sinh viên trong số 105 người phải thi tuyển. Sau khi học 4 năm, tốt nghiệp, được cấp bằng Y Sĩ phụ Tá (Medecin auxilliaire). Năm 1914, thêm phân khoa Dược và trường được đổi tên mới là Trường Cao Đẳng Chuyên nghiệp Y Dược Khoa (Ecole de Plein Exercice de Médecine et de Pharmacie). Chương trình học tăng thêm một năm thành 5 năm.
Kể từ năm 1923, ở Việt Nam, muốn vào Y-khoa phải có bằng tú tài Pháp và sau khi đậu Y-Khoa sẽ được phát bằng Bác sĩ Y-Khoa Pháp. Còn nếu có bằng tú tài bản xứ thì khi ra trường chỉ được cấp bằng Y Sĩ Đông Dương (Medecin Indochinois). Trường Y-Khoa Hà Nội lúc đầu toạ lạc tại ấp Thái Hoà, ngoại ô của thành phố Hà Nộị Sinh viên y khoa thực tập trong những nhà thương như Phủ Doãn và Bạch Maị Sau đó khoảng cuối thập niên 20, trường Y-Khoa được dọn về đường Bobillot, tức là đường Lê Thánh Tôn ở Hà Nộị Năm 1936, trường được đổi tên là Đại Học Y-Khoa (Faculté de Médecine).
Năm 1947, chi nhánh Y-Khoa Đại Học Hà nội được thiết lập ở Sàigòn để đào tạo sinh viên y khoa cho miền Nam Việt Nam.
Nhưng, cho tới năm 1954, khi đất nước chia đôi, phần lớn bộ phận Y Khoa Hà Nội đã di cư vào Nam. Lúc đầu, trường Y Khoa Sài gòn đặt trụ sở tại 28 Đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn. Đây là nơi tụ tập giảng đường và thư viện của trường. Khởi thủy, ban giáo huấn gồm những giáo sư Việt và Pháp, nhưng sau đó phần lớn các giáo sư Pháp lần lượt trở về cố xứ. Bởi vậy, sau năm 1962, Văn Bằng Y-Khoa Bác Sĩ của trường Sài gòn hết được người Pháp công nhận tương đương với văn bằng Y-khoa Pháp. Tuy nhiên, cũng kể từ đây, có thể coi như bắt đầu chấm dứt thể chế Y-Khoa thuộc địa Pháp, mặc dầu ảnh hưởng vẫn còn sâu đậm, nhất là tiếng Pháp vẫn còn là thứ ngôn ngữ chính thức trong trường Y Khoa của người Việt. Tưởng cũng nên lưu ý ở thời điểm này, nếu ai có con em may mắn được học qua trung học Pháp sẽ rất thuận lợi và dễ dàng thông suốt chương trình y khoa. Nhưng ngược lại, trong buổi giao thời này, những sinh viên Việt học chương trình Việt, vì vấn đề ngôn ngữ, khó trở thành những sinh viên y khoa ưu tú. Vô tình hay hữu ý, y khoa dùng Pháp ngữ đã cản trở bước tiến của rất nhiều sinh viên Việt Nam.

Về phương diện thực tập bệnh lý, những cơ sở Y Khoa Sài Gòn bao gồm một số nhà thương như bênh viện Chợ Rẫy, nhà thương Bình Dân, Nhi Đồng, Từ Dũ, Hồng Bàng, Chợ Quán, Đô Thành Sài Gòn, và Nguyễn văn Học. Còn những nơi thực tập khoa học căn bản đóng đô ở Cơ Thể Học Viên, Bệnh Viện Sài gòn, Viện Pasteur,Phòng Sinh lý Y khoa, Cơ thể Bệnh lý và Mô học, v..v...
Sau này, chương trình học y-khoa Việt Nam bao gồm 7 năm: một năm Tiền y-khoa (Pre-Med) tức là P.C.B (Physics, Chemistry và Biology: Vật lý, Hóa học và Sinh lý học) học tại trường Đại Học Khoa Học, và 6 năm về Y-khoa tại trường Y-Khoa. Sau đó, sinh viên phải trình luận án cho văn bằng Y Khoa Bác Sĩ, một chương trình rập khuôn của y khoa Pháp.
Nhưng, kể từ năm 1966, bắt đầu có những đổi thaỵ
Trung Tâm Giáo Dục Y-Khoa được rời về trường ốc mới xây cất ở Đại Lộ Hồng Bàng, do Mỹ đài thọ Chương trình y-khoa biến dạng với nhiều bộ môn y khoa mới, theo lối Mỹ, yểm trợ bởi Hội Y Sĩ Hoa Kỳ (American Medical Association). Kể tữ đây, lối học từ chương được thay thế bởi phương pháp y khoa tiến bộ: học để hiểu. Chương trình y khoa Việt Nam mơi tổng hợp 2 quan điểm: y-khoa như một nghệ thuật của Pháp và y-khoa là một khoa học của Mỹ. Sự hồi phục chương trình mới tổng hợp Việt-Pháp-Mỹ đã ngẫu nhiên đào tạo một thế hệ Y sĩ cứng cáp hơn, nhất là về bộ môn khoa học y-khoa căn bản, đặc biệt ở thế hệ 1968-1975. Bằng chứng là những bác sĩ y khoa tốt nghiệp trong thời điểm sau này đã hội nhập y khoa ở hải ngoại dễ dàng hơn so với những thế hệ đàn anh.
Lại nữa, đổi mới đã kéo theo một thể chế dân chủ trong việc bầu bán Hội Đồng Khoa trong Đại Học Y-Khoa Việt Nam, kể từ tháng Giêng năm 1967. Cũng trong thời điểm 1970, sinh viên y khoa muốn loại bỏ chế độ tuyển lựa nội trú thi cử, một phương pháp huấn luyện nội trú không đồng đều, rất bất lợi cho khả năng y sĩ Việt Nam. Hãy nhìn những chế độ nội trú tại những nước tân tiến như ở Mỹ, Anh đã đưa mức tài năng các y sĩ lên cao nhất nhì thế giớị Ngày nay, quay lại việc tuyển lựa sinh viên nội trú trong thực trạng taị Việt Nam kể tư ønăm 2000, có thể là một dấu hỏi thụt lùi với nền y-khoa Pháp, chưa chắc đã phải là một ưu điểm, tiến bô..
Tóm tắt, theo tài liệu do Giáo sư Đào Hữu Anh ghi lại thì Y Khoa Hà Nội đào tạo khoảng 648 người bao gồm Y sĩ phụ Tá, Y sĩ Đông Dương và Bác sĩ Y Khoa. Tổng số luận án Y Khoa Bác sĩ do trường Đại Học Y-Khoa ở Sài Gòn cấp, kể từ năm 1947 tới năm 1975, khoảng 2380, nghĩa là 2380 y sĩ ra trường liên tiếp trong 3 chương trình Y-khoa Pháp, Viêt-Pháp và Việt-Pháp-Mỹ.
References:
1. Giáo sư Đào Hữu Anh: Vài dòng tóm lược lịch sử Y Khoa Đại Học Hà nội (1902-1954) và Y Khoa Đại Học Sài Gòn (1947-1975) trong Đặc San Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ, Anaheim, August 10-12, 2002.
2. Bác sĩ Tôn Thất Cần: Vài nhận xét về tổ Chức Y Khoa Đại Học tại Việt Nam, cho đến năm 1975 trong Đặc San Đại Hội Y Nha Dược Sĩ, Anaheim, 2002.
3. Bác sĩ Nguyễn Đức Tuệ: Giáo sư Đào Đức Hoành không còn nữa, trong Đặc San Đại Hội Y Nha Dược Sĩ, Anaheim 2002.
Tran Mạnh Ngo, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; E-mail: Tran.Ngo@Verizon.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.