Hôm nay,  

Thầy Lang: Bệnh Parkinson

27/10/200600:00:00(Xem: 5436)

Câu Chuyện Thầy Lang: Bệnh Parkinson

Không biết bắt đầu tự bao giờ, mà trong việc nghiên cứu y khoa học, có một thói quen lấy tên người khám phá ra sự việc để đặt cho kết quả một công trình nghiên cứu của người đó.

Vi khuẩn gây ra bệnh lao mang tên vi trùng Koch, là tên của bác sĩ người Đức Robert Koch đã tìm ra vi sinh vật này vào năm 1882; bệnh phong mang tên bác sĩ người Na Uy Gerard Hansen; phương pháp khử trùng bằng sức nóng mang tên nhà bác học Louis Pasteur của Pháp...và cả trăm tên riêng khác. Thật là một vinh dự cho các nhà nghiên cứu và cũng là để tỏ lòng tri ân của quần chúng đối với các vị này..

Bệnh Liệt Rung thường được gọi nhiều hơn với tên Bệnh Parkinson. Parkinson là tên của vị bác sĩ giải phẫu người Anh, James Parkinson, sinh năm 1755 và mất năm 1824. Năm 1817, ở tuổi 62, ông xuất bản tác phẩm “Eassay on the Shaking Palsy”, diễn tả rõ ràng hơn về những cơn rung của một số bệnh nhân mà các thầy thuốc đương thời nói tới. Ông thấy rằng, người bệnh bắt đầu có cơn rung giật cách hồi ở một chi, rồi cơn rung trở nên không kiểm soát được. Khi người bệnh thay đổi vị trí bất thình lình thì cơn rung ở chi đó ngừng để rồi lại rung ở chân hoặc cánh  tay phía bên kia. Ông cũng nhấn mạnh tới sự liên hệ giữa rung với liệt, với bước đi lảo đảo ngắn-đi đâm vầm- (festination), với dáng điệu khom khom lưng, cứng nhắc của người bệnh. Theo ông, liệt chỉ tạm thời mặc dù bệnh có trầm trọng.

Tình trạng rung của các cơ đã được diễn tả trong các văn bản y học từ nhiều ngàn năm về trước bởi nhiều nhà nghiên cứu như Galen, Leonardo da Vinci, Franciscus de la Boe...

Tiếp nối công trình của Parkinson, nhiều nhà khoa học khác đã công bố các khám phá mới về bệnh rung liệt, cả về nguyên nhân bệnh cũng như về trị liệu.

Trước đây, người ta cho rằng liệt rung gây ra do tai biến não, bệnh của tủy sống, của cơ...Một trăm năm sau khi bác sĩ Parkinon diễn tả bệnh, người ta đã khám phá ra nguyên nhân chính của Liệt rung. Đó là sự hoại tử của vùng chất xám (substantia nigra) trong não bộ.

Vào thập niêm 1800, bác sĩ Thần kinh nổi danh Jean M. Charcot của Pháp đã đề nghị đặt tên của bác sĩ Parkinson cho bệnh Liệt Rung.

Parkinson là bệnh thoái hóa dần dần của hệ thần kinh trung ương, thường thấy ở lớp  người ngoài 50 tuổi, rất ít khi thấy ở tuổi trẻ. Nam giới bị bệnh nhiều hơn nữ giới một ít. Bệnh vừa mãn tính vừa tăng lên đều đều. Mãn tính vì bệnh kéo dài một thời gian lâu. Tăng đều đều có nghĩa là bệnh trở nên trầm trọng với thời gian. Diễn tiến và các triệu chứng của bệnh thay đổi tùy từng cá nhân.

Nguyên nhân

Parkinson vẫn còn được coi như vô căn (idiopathic), có nghĩa là một bệnh mà nguyên nhân chưa được biết rõ.

Một số yếu tố có thể có liên hệ với bệnh liệt rung là tác dụng phụ của vài loại thuốc trị bệnh tâm thần (phenothiazine, thioxanthene, reserpine...), viêm nhiễm virus não, ngộ độc khí carbon monoxide, khoáng manganese, một loại thuốc gây nghiện tổng hợp từ chất gây mê (narcotic), thiểu tuần hoàn não, tuổi cao, di truyền...

Điều mà y khoa học biết rõ về bệnh Parkinson là: não bộ người bệnh không sản xuất được chất dopamine.

Dopamine là một trong nhiều chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter), chuyển tín hiệu điện năng giữa các tế bào thần kinh, tới các cơ quan để tạo ra hành động. Các công việc như học hỏi, suy nghĩ, cất bước đi, dơ tay cầm đồ vật... đều do não bộ điều khiển và chất dẫn truyền thần kinh chuyển mệnh lệnh tới các bộ phận liên hệ để hành động.

Dopamine do một nhóm tế bào não gọi là substantia nigra xản xuất. Trong bệnh Parkinson, tế bào của vùng xám đen này bị hủy hoại và  không sản xuất ra dopamine. Các tín hiệu xuất phát từ não bảo cơ thể khi nào cử động, cử động ra sao... bị gián đoạn, khiến cho người bệnh không khởi sự và kiểm soát được các cử động, dáng điệu... của mình một cách bình thường.

Nhưng nguyên do gây ra sự hủy hoại các tế bào của substantia nigra vẫn chưa được biết rõ.

Triệu chứng

Các dấu hiệu của bệnh xuất hiện từ từ, không rõ rệt nên rất khó mà nhận ra và nhiều khi có thể nhầm lẫn với các bệnh khác. Thường thường, người nhà hoặc bạn bè lại phát hiện  một vài dấu hiệu sớm ở người bệnh, như nét mặt vô cảm, dáng đi cứng nhắc, rung  bàn tay... Có người thấy cơ bắp cứng, đi lại không vững, mất thăng bằng; có người bắt đầu bằng rung tay, dễ mệt mỏi, bước chân kéo lê, nét mặt thẫn thờ, phát ngôn khó khăn...Người tuổi cao, người yếu sức khỏe cũng có thể có các dấu hiệu này. Cho nên, khó mà xác định thời gian khởi đầu của bệnh.

 Nhưng khi đã tới giai đoạn xa, bệnh Parkinson có một số dấu hiệu chính sau đây:

a. Rung khi nghỉ.

Dấu hiệu này thường thấy ở hầu hết các bệnh nhân Parkinson. Đặc điểm của rung là sụ chuyển động nhịp nhàng, đều đều, từ 4 tới 6 lần trong một giây, thường là ở bàn tay, khi người bệnh không làm việc, và họ không kiểm soát được.  Đôi khi rung cũng xảy ra ở cánh tay, chân, cằm, mặt, cổ, môi, lưỡi...Cường độ rung thay đổi tùy theo thời gian trong ngày, nhiều hơn khi căng thẳng tinh thần hay thể chất hoặc ở giữa đám đông người.

b. Cứng cơ

Hầu hết các bắp thịt đều ở trong tình trạng căng cứng liên tục, gây khó khăn cho các hoạt động của cơ thể. Chân cứng  nhắc, bước đi khó khăn, tay  không vung vẩy;  gương mặt lạnh lùng (như mang mặt nạ), không cảm xúc, không nụ cười, không chớp mắt, khó khăn nhai nuốt nước miếng, thực phẩm,  phát âm không rõ, tiếng nói nhỏ, đều đều, lắp bắp nói lắp. Mặc dù căng  cứng nhưng các bắp thịt  không bị tổn thương và  vẫn sử dụng được khi tập luyện.

c. Dáng đi cứng nhắc, đầu cúi về phía trước, lưng khom khom, cất bước khó khăn, không quay mình được, đôi khi lật đật bước nhanh để giữ thăng bằng, tránh té ngã..

d. Khó khăn,  chậm chạp khi thực hiện các cử động  và mất khả năng điều chỉnh tư thế cơ thể. Nhiều người không làm được các động tác thường lệ như mặc quần áo, cài khuy áo quần, cầm thìa, cầm bát ăn cơm, viết lách, cầm báo để đọc, gãi đầu...Đang làm một động tác nào đó, người bệnh bất chợt trơ trơ bất động. Chẳng hạn như đang đi tự nhiên đứng khựng lại, đang nói chợt ngưng, há miệng ú ớ..

Hầu hết bệnh nhân ở trong tâm trạng trầm cảm, lo sợ, tự cô lập, hay quên, thay đổi tính tình, dễ có cảm giác sợ sệt, không có sáng kiến...

Họ hay than phiền đau nhức các bắp thịt,  táo bón, khó khăn tiểu tiện. Da thường bị viêm, nhờn, tróc, đặc biệt ở mũi, trán, mí mắt, lông mày...

Đang ngồi mà đứng lên, họ thấy chóng mặt, muốn té vì huyết áp giảm. Họ rất hay bị té ngã vì mất thăng bằng cơ thể...

Các dấu hiệu của bệnh thay đổi tùy theo từng bệnh nhân. Có người rung, có người chỉ có co cứng cơ ...

Chẩn đoán bệnh

Bệnh được chẩn đoán qua tiền sử, các dấu hiệu lâm sàng, khám nghiệm tổng quát, khám nghiệm thần kinh, thực hiện não điện đồ, chụp X quang não bộ bằng MRI (magnetic resonance imaging), PET (positron emission tomography). PET là phương pháp khá tinh vi, có thể phát hiện ra các sinh hoạt sinh hóa chất, như là dopamine, noradrenaline... của não mà bình thường chỉ biết được khi giải phẫu quan sát tế bào não.

Tiền sử nhắm vào việc tìm hiểu xem bệnh nhân đã bị chấn thương, tai biến não, tiếp xúc với các chất độc hại hoặc đã có các bệnh thoái hóa khác.

Thực ra, không có một thử nghiệm hoặc x -quang nào có thể xác định bệnh.

Điều trị

Bệnh Parkinson đang được các nhà nghiên cứu dành rất nhiều công sức, tiền tài để tìm ra các phương thức điều trị, vì liệt run gây nhiều khó khăn, trở ngại  cho đời sống người bệnh.

Bệnh được điều trị bằng dược phẩm, giải phẫu..Ngoài ra, các phương thức hỗ trợ như chăm sóc, dinh dưỡng, vật lý trị liệu, vận động cơ thể....cũng có vai trò quan trọng.

1. Dược phẩm

 Mặc dù chưa có cách trị dứt, một số dược phẩm có thể làm dịu bớt các dấu hiệu của bệnh Parkinson, giúp người bệnh duy trì được sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên thuốc cũng có thể gây ra một vài trở ngại:

-Thuốc có nhiều tác dụng phụ rất khó chịu cho bệnh nhân

-Bệnh nhân có thể trở nên quen với thuốc, cần gia tăng liều lượng hoặc dùng phối hợp nhiều dược phẩm với nhau.

-Thời gian tác dụng của thuốc rất ngắn, nên bệnh nhân phải uống nhiều lần trong ngày

Ngoài ra, thuốc không giải quyết vấn nạn chính của bệnh là sự hủy hoại các tế bào tạo ra chất dopamine của bệnh, cho nên tương lai bệnh khó mà ước đoán.

Các thuốc thường dùng là:

a. Thuốc để bổ xung dopamine không được sản xuất ở não, loại levodopa. Vào tới não, Levodopa sẽ chuyển hóa thành dopamine.

 Levodopa thường được dùng phối hợp với môt loại thuốc khác (carbidopa) để giảm thiểu tác dụng phụ của levodopa và tăng cường hiệu năng của thuốc này.

Tác dụng phụ của levodopa gồm có ngây ngất, giảm huyết áp khi đứng lên, ác mộng, rối loạn vận động, buồn nôn, đau bụng, hồi hộp, đôi khi hoang tưởng ..

b. Thuốc chống sản xuất chất acetylcholine (anticholinergic drugs như benzotropine, diphenhydramine...) Acetylcholine là chất kích thích cơ cứng và rung nhiều hơn khi dopamine vắng mặt.

Tác dụng phụ thường thấy là khô miệng, táo bón, mờ mắt, mất định hướng, mê sảng...

c. Thuốc nhái tác dụng của dopamine (bromocriptine, perglolide...), giúp dẫn truyền tín hiệu thần kinh mà không cần tới dopamine.

d. Thuốc ngăn men monoamine oxidase (MAO) chuyển hóa dopamine thành chất vô hiệu.   Đó là loại monoamine oxidase inhibitor-B (MAO B) như thuốc selegiline, Azilect (rasagiline..).

2. Giải phẫu

Giải phẫu được áp dụng cho một số bệnh nhân không đáp ứng với dược phẩm, như là:

-Cắt bỏ mô bào não gây ra các cử động hoặc tiết ra các hóa chất bất thường.

-Giải phẫu cầu nhạt (pallidum): cầu nhạt là một trong nhiều tập hợp đặc của chất sám, nằm sâu trong mỗi bán cầu não, và có thể gây ra một số cử động bất thường cho bệnh nhân sau nhiều năm dùng thuốc. Phẫu thuật gia sẽ tìm đúng vị trí mô bào này và đốt một cái lỗ nhỏ li ti lên tế bào đó, chặn không cho tế bào gây ra cử động bất thường.

-Kích thích não (deep brain stimulation -DBS) với luồng điện rất nhỏ phát ra từ một vi thiết bị đặt trong não, để giảm thiểu cơn rung và các cử động bất thường. Phương pháp này rất hữu hiệu trong một số trường hợp và được dùng khi dược trị liệu  thất bại hoặc gây ra nhiều tác dụng ngoại ý.

-Gene trị liệu đang được thử nghiệm và có nhiều triển vọng tốt. Mục tiêu của trị liệu này là thay gene bệnh bằng gene khỏe mạnh, qua trung gian của một vật thể nào đó. Hiện nay các nhà khoa học đang thử dùng một loại virus để làm công việc mang gene lành mạnh này vào não.

Hỗ trợ, chăm sóc

Bệnh Parkinson đưa đến nhiều trở ngại, khó khăn cho nếp sống của người bệnh. Họ có khó khăn trong việc ăn uống, tắm rửa, vệ sinh. Họ đi lại khó khăn, không diễn tả được ý nghĩ lời nói. Tính tình thay đổi bất thường, đôi khi bướng bỉnh đập phá. Họ không tự sử dụng thuốc men vì uống nhiều loại khác nhau và nhiều lần trong ngày...Họ cần sự chăm sóc giúp đỡ.

Người chăm sóc hầu như có vai trò của nhiều nhà chuyên môn: hướng dẫn chế độ ăn uống, hướng dẫn dùng thuốc, hướng dẫn cách nói, vận động cơ thể, vệ sinh cá nhân...Đây là việc làm cần sự hy sinh của người chăm sóc.

Ngoài ra, bệnh nhân cần giữ hẹn với bác sĩ để theo dõi bệnh tình, thay đổi thuốc; tham dự các chương trình vật lý trị liệu, duy trì các sinh hoạt xã hội...

Texas-Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.