Phân tích Gene hoạt động có thể tiên đoán bệnh nhân thích hợp thuốc khi điều trị Viêm Gan C hay không"
Bs Ian McGilvray và các cộng sự viên thuộc Đại Học Y Khoa Toronto nghiên cứu 31 bệnh nhân bị viêm gan C từ October 2001 tới May 2004. Dùng một con “chip” phân tích genes, tức là các khoa học gia có thể phân tích được gene biểu hiện ra sao, đồng thời có thể phân biệt được gene nào hoạt động, gene nào không hoạt động.
Nhìn bản đồ gene cũng có thể biết gene thay đổi như thế nào, theo từng giai đoạn của bệnh, đồng thời có thể ước định mỗi bệnh nhân thích hợp với mỗi cách điều trị ra sao. Khi nghiên cứu bản đồ gene, các chuyên viên phải phân tích 19,000 genes cho mỗi bệnh nhân. Khác biệt giữa bệnh nhân chịu thuốc trong khi điều trị và bệnh nhân không thích hợp khi điều trị viêm gan C phụ thuộc vào một nhóm 18 genes. Trong trường hợp bệnh nhân không hợp với thuốc đang điều trị thì 18 genes hoạt động và 2 genes không hoạt động. Khi 16 genes hoạt động mạnh là lúc genes bị thuốc trị viêm gan Interferon kích thích. Theo các chuyên gia thì khi bệnh nhân không chịu thuốc đang dùng, genes sẽ phản ứng hết sức mãnh liệt. Journal of Gastroenterology, May 2005.
Những Lợi Hại Của Đậu Phọng
Đậu phụng (Peanuts) bây giời được giới y khoa khuyên bệnh nhân nên dùng. Năm ngoái, người Mỹ ăn 1.7 tỉ cân đậu phụng.Trong đâu phụng chứa nhiều sinh tố E, sinh tố niacin và sinh tố B6. Ngoài ra còn chứa những kim loại như potassium K, chất kẽm và magnesium. Trong đâu phụng cũng có nhiều chất xơ fibers và bạch đản. Trong đâu phụng sinh ra nhiều calories, nên chỉ ăn vừa đủ. Chỉ một nắm đậu phụng chứa 200 calories. (Bàn thêm: khoảng 1.5 triệu người sống ở Mỹ bị dị ứng vì đậu phụng. Đậu phụng không hoàn toàn là loại hạt, mà là một loại rau, cùng họ vơí đậu Hòa Lan chẳng hạn. Khi bị dị ứng có những triệu chứng như dị ứng hạt dẻ, dị ứng hạt cashews hay pecans. Sau khi ăn đâu phụng lần đầu tiên thì trung bình khoảng 14 tháng sau cơ thể sinh đủ kháng thể nên bị dị ứng khi ăn đậu phụng lần thứ hai. Triệu chứng dị ứng nhẹ thì ngứa ngáy, tê lưỡi hay chảy nước mũi, ói, đau bụng hay tiêu chảy.. Khi bị nặng hơn thì thở không được, sưng cổ và sưng một phần nào cơ thể, huyết áp xuống thấp, chóng mặt và có thể bất tỉnh. Trường hợp nặng hơn nữa gọi là phản vệ (anaphylaxis) xuất hiện mọi hệ thống trong cơ thể như da, bộ máy hô hấp, bộ máy tiêu hóa hay tim mạch: nguy hiểm chết người. Những triệu chứng vì dị ứng phản vệ làm áp xuất máu hạ thấp, lưỡi sưng lên, khó thở, bất tỉnh, đôi khi đưa tới tử vong. Phần bàn luận này muốn nói lên mặt trái, mặt phải, hay những lợi hại của đậu phụng để mọi người thận trọng).
Thay Đổi Nhịp Tim Khi Đập Thể Dục Có Thể Suy Đoán Chết Bất Đắc Kỳ Tử Vì Cơn Đau Tim.
Bs Xavier Jouven cùng các đồng nghiệp thuộc Đại Học Y Khoa René Descartes, Paris và Đại Học Pavia, Ý Đại Lợi, nghiên cứu 5713 đàn ông khỏe mạnh tuổi từ 42 tới 53. Họ là những người chưa bao giờ có triệu chứng bệnh tim mạch và và thường tập thể dục và đo tim theo dõi từ năm 1967 tới 1972. Nghiên cứu điện tâm đồ khi bệnh nhân chạy máy tập trung nhịp tim khi ngừng nghỉ, nhịp tim tăng cao từ lúc nghỉ cho tới lúc tập thể dục ở cường độ cao nhất, rồi nhịp tim giảm một phút sau khi nghỉ tập.
Kết quả cho thấy trong khi theo dõi chương trình nghiên cứu liên tục 23 năm thì 81 bệnh nhân đã chết bất đắc kỳ tử. Nguy cơ tử vong chết bất đắc kỳ tử vì chứng nhồi máu cơ tim tăng cao khi bệnh nhân có nhịp tim đập lớn hơn 75/một phút khi nghỉ ngơi, trong trường hợp bệnh nhân tăng cao nhịp tim đập thấp hơn 89/một phút và ở bệnh nhân có nhịp tim đập giảm thấp hơn 25/một phút sau khi ngưng tập thể dục. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả 3 yếu tố kể trên đều gây bất đắc kỳ tử cho bệnh nhân chứ không phải chết bất thình lình vì chứng nhồi máu cơ tim.
Tổng kết quả cho thấy chỉ cần theo dõi tình trạng nhịp tim đập của người khỏe mạnh khi tập thể dục và khi ngưng tập thể dục có thể tiên đoán nguy cơ tử vong bất thình lình của bệnh nhân. New England Journal of Medicine, 232: 1951, 2005
(Bàn thêm: Những kết quả kể trên cho thấy khi tập thể dục bị chứng loạn tim là nguyên nhân chính bệnh nhân bị tử vong bất đắc kỳ tử, chứ không phải do chứng nhồi máu cơ tim. Khám phá kể trên phù hợp vơí quan niệm cho rằng hiện tượng tim đập tự động khi mất thăng bằng sẽ gây tim đập thất nhịp và là nguyên nhân tử vong. Bởi vậy đối với những người khỏe mạnh có tiểu sử bệnh lý liên hệ nguy cơ tử vong bất chợt là phải điều chỉnh, bằng thuốc, hiện tượng mất thăng bằng tự động tim đập, tức là phải sửa chữa tim đập thất nhịp. Bình thưòng thì nhịp tim đâp có thể thay đổi mỗi ngày. Khi tập thể dục, lo lắng hay cơ thể kích thích quá độ tăng cao nhịp tim đập (trên 100 nhịp/một phút). Khi ngủ thì nhịp tim đập chậm lại (dưới 60 nhịp/một phút). Khi tuổi càng cao, mặc dầu không bị bệnh tim mạch vẫn có thể bị chứng tim đập thất nhịp. Vài trường hợp bẩm sinh cũng có thể gây tim đập thất nhịp. Khi đường dẫn truyền thần kinh trong tim bị tắc nghẽn có thể khiến tim ngưng đập hay đập chậm. Nhưng bệnh tim mạch vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tim đập thất nhịp, như bệnh vữa xơ động mạch, cao huyết áp, những hiện tượng viêm hay thoái hóa. Làm thẹo hay những chất cô đọng trên đường giây thần kinh trong tim có thể khiến tim đập nhanh hay chậm. Nhiều nguyên nhân khác có thể gây tim đập thất nhịp như hệ thống thấn kinh tự động tim đập bị hư, những hóa chất như thay đổi độ kim loại trong máu (potassium, magnesium và calcium), rượu, thuốc lá, ma túy, hay ngay cả thuốc dùng để điều trị nhịp tim).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/
Bs Ian McGilvray và các cộng sự viên thuộc Đại Học Y Khoa Toronto nghiên cứu 31 bệnh nhân bị viêm gan C từ October 2001 tới May 2004. Dùng một con “chip” phân tích genes, tức là các khoa học gia có thể phân tích được gene biểu hiện ra sao, đồng thời có thể phân biệt được gene nào hoạt động, gene nào không hoạt động.
Nhìn bản đồ gene cũng có thể biết gene thay đổi như thế nào, theo từng giai đoạn của bệnh, đồng thời có thể ước định mỗi bệnh nhân thích hợp với mỗi cách điều trị ra sao. Khi nghiên cứu bản đồ gene, các chuyên viên phải phân tích 19,000 genes cho mỗi bệnh nhân. Khác biệt giữa bệnh nhân chịu thuốc trong khi điều trị và bệnh nhân không thích hợp khi điều trị viêm gan C phụ thuộc vào một nhóm 18 genes. Trong trường hợp bệnh nhân không hợp với thuốc đang điều trị thì 18 genes hoạt động và 2 genes không hoạt động. Khi 16 genes hoạt động mạnh là lúc genes bị thuốc trị viêm gan Interferon kích thích. Theo các chuyên gia thì khi bệnh nhân không chịu thuốc đang dùng, genes sẽ phản ứng hết sức mãnh liệt. Journal of Gastroenterology, May 2005.
Những Lợi Hại Của Đậu Phọng
Đậu phụng (Peanuts) bây giời được giới y khoa khuyên bệnh nhân nên dùng. Năm ngoái, người Mỹ ăn 1.7 tỉ cân đậu phụng.Trong đâu phụng chứa nhiều sinh tố E, sinh tố niacin và sinh tố B6. Ngoài ra còn chứa những kim loại như potassium K, chất kẽm và magnesium. Trong đâu phụng cũng có nhiều chất xơ fibers và bạch đản. Trong đâu phụng sinh ra nhiều calories, nên chỉ ăn vừa đủ. Chỉ một nắm đậu phụng chứa 200 calories. (Bàn thêm: khoảng 1.5 triệu người sống ở Mỹ bị dị ứng vì đậu phụng. Đậu phụng không hoàn toàn là loại hạt, mà là một loại rau, cùng họ vơí đậu Hòa Lan chẳng hạn. Khi bị dị ứng có những triệu chứng như dị ứng hạt dẻ, dị ứng hạt cashews hay pecans. Sau khi ăn đâu phụng lần đầu tiên thì trung bình khoảng 14 tháng sau cơ thể sinh đủ kháng thể nên bị dị ứng khi ăn đậu phụng lần thứ hai. Triệu chứng dị ứng nhẹ thì ngứa ngáy, tê lưỡi hay chảy nước mũi, ói, đau bụng hay tiêu chảy.. Khi bị nặng hơn thì thở không được, sưng cổ và sưng một phần nào cơ thể, huyết áp xuống thấp, chóng mặt và có thể bất tỉnh. Trường hợp nặng hơn nữa gọi là phản vệ (anaphylaxis) xuất hiện mọi hệ thống trong cơ thể như da, bộ máy hô hấp, bộ máy tiêu hóa hay tim mạch: nguy hiểm chết người. Những triệu chứng vì dị ứng phản vệ làm áp xuất máu hạ thấp, lưỡi sưng lên, khó thở, bất tỉnh, đôi khi đưa tới tử vong. Phần bàn luận này muốn nói lên mặt trái, mặt phải, hay những lợi hại của đậu phụng để mọi người thận trọng).
Thay Đổi Nhịp Tim Khi Đập Thể Dục Có Thể Suy Đoán Chết Bất Đắc Kỳ Tử Vì Cơn Đau Tim.
Bs Xavier Jouven cùng các đồng nghiệp thuộc Đại Học Y Khoa René Descartes, Paris và Đại Học Pavia, Ý Đại Lợi, nghiên cứu 5713 đàn ông khỏe mạnh tuổi từ 42 tới 53. Họ là những người chưa bao giờ có triệu chứng bệnh tim mạch và và thường tập thể dục và đo tim theo dõi từ năm 1967 tới 1972. Nghiên cứu điện tâm đồ khi bệnh nhân chạy máy tập trung nhịp tim khi ngừng nghỉ, nhịp tim tăng cao từ lúc nghỉ cho tới lúc tập thể dục ở cường độ cao nhất, rồi nhịp tim giảm một phút sau khi nghỉ tập.
Kết quả cho thấy trong khi theo dõi chương trình nghiên cứu liên tục 23 năm thì 81 bệnh nhân đã chết bất đắc kỳ tử. Nguy cơ tử vong chết bất đắc kỳ tử vì chứng nhồi máu cơ tim tăng cao khi bệnh nhân có nhịp tim đập lớn hơn 75/một phút khi nghỉ ngơi, trong trường hợp bệnh nhân tăng cao nhịp tim đập thấp hơn 89/một phút và ở bệnh nhân có nhịp tim đập giảm thấp hơn 25/một phút sau khi ngưng tập thể dục. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả 3 yếu tố kể trên đều gây bất đắc kỳ tử cho bệnh nhân chứ không phải chết bất thình lình vì chứng nhồi máu cơ tim.
Tổng kết quả cho thấy chỉ cần theo dõi tình trạng nhịp tim đập của người khỏe mạnh khi tập thể dục và khi ngưng tập thể dục có thể tiên đoán nguy cơ tử vong bất thình lình của bệnh nhân. New England Journal of Medicine, 232: 1951, 2005
(Bàn thêm: Những kết quả kể trên cho thấy khi tập thể dục bị chứng loạn tim là nguyên nhân chính bệnh nhân bị tử vong bất đắc kỳ tử, chứ không phải do chứng nhồi máu cơ tim. Khám phá kể trên phù hợp vơí quan niệm cho rằng hiện tượng tim đập tự động khi mất thăng bằng sẽ gây tim đập thất nhịp và là nguyên nhân tử vong. Bởi vậy đối với những người khỏe mạnh có tiểu sử bệnh lý liên hệ nguy cơ tử vong bất chợt là phải điều chỉnh, bằng thuốc, hiện tượng mất thăng bằng tự động tim đập, tức là phải sửa chữa tim đập thất nhịp. Bình thưòng thì nhịp tim đâp có thể thay đổi mỗi ngày. Khi tập thể dục, lo lắng hay cơ thể kích thích quá độ tăng cao nhịp tim đập (trên 100 nhịp/một phút). Khi ngủ thì nhịp tim đập chậm lại (dưới 60 nhịp/một phút). Khi tuổi càng cao, mặc dầu không bị bệnh tim mạch vẫn có thể bị chứng tim đập thất nhịp. Vài trường hợp bẩm sinh cũng có thể gây tim đập thất nhịp. Khi đường dẫn truyền thần kinh trong tim bị tắc nghẽn có thể khiến tim ngưng đập hay đập chậm. Nhưng bệnh tim mạch vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tim đập thất nhịp, như bệnh vữa xơ động mạch, cao huyết áp, những hiện tượng viêm hay thoái hóa. Làm thẹo hay những chất cô đọng trên đường giây thần kinh trong tim có thể khiến tim đập nhanh hay chậm. Nhiều nguyên nhân khác có thể gây tim đập thất nhịp như hệ thống thấn kinh tự động tim đập bị hư, những hóa chất như thay đổi độ kim loại trong máu (potassium, magnesium và calcium), rượu, thuốc lá, ma túy, hay ngay cả thuốc dùng để điều trị nhịp tim).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/
Gửi ý kiến của bạn