Hôm nay,  

Chức Năng Và Các Bệnh Tật Liên Quan Đến Bàng Quang

07/04/202300:00:00(Xem: 1329)

ban quang
Bàng quang (bladder) là một cơ quan hình tròn giống như một chiếc túi, nằm ở vùng xương chậu, bên dưới thận và ngay phía sau xương chậu. Nó có thể chứa khoảng 16 ounce (gần nửa lít) nước tiểu cùng một lúc trong từ hai đến năm tiếng đồng hồ. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)
  
Bàng quang hay bọng đái (bladder) là một cơ quan hình tròn giống như một chiếc túi, có nhiệm vụ chứa nước tiểu. Nó nằm ở vùng xương chậu, bên dưới thận và ngay phía sau xương chậu. Về cơ bản thì nó là một bể chứa bằng thịt, nhưng thiết kế của ‘bể chứa’ này rất phức tạp.
 
Bàng quang lớn cỡ nào?
 
Theo Viện Ung Thư Quốc Gia (National Cancer Institute – NCI), bàng quang khi rỗng có kích thước và hình dạng bằng trái lê. Tuy nhiên, nó có thể giãn ra lớn hơn nhiều khi cần thiết, và co trở lại khi trống. Trên thực tế, nó có thể chứa khoảng 16 ounce (gần nửa lít) nước tiểu cùng một lúc trong từ hai đến năm tiếng đồng hồ một cách thoải mái, theo Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (U.S. National Library of Medicine – NLM).
 
Theo National Institutes of Health (NIH), người bình thường sẽ đi tiểu khoảng sáu đến tám lần trong khoảng 24 tiếng. Số lần đi tiểu nhiều hơn có thể là dấu hiệu cho thấy bàng quang đang có vấn đề. Những người cao niên thường cũng đi tiểu nhiều hơn.
 
Bàng quang có nhiệm vụ gì?
 
Bàng quang được nối thông với thận bằng hai ống dài, gọi là niệu quản. Khi thận sản xuất ra nước tiểu, nước tiểu sẽ theo niệu quản đi đến bàng quang, và được giữ lại ở đây. Bàng quang có bốn lớp.
 
Xét từ trong ra ngoài, lớp đầu tiên ở mặt trong của bàng quang gọi là niêm mạc. Nó hoạt động như một lớp lót cho bàng quang. Lớp tiếp theo là lớp đệm niêm mạc hay gọi là hạ niêm mạc, bao gồm các mô liên kết, cơ và mạch máu. Bọc xung quanh lớp đệm này là một lớp được gọi là cơ đệm (muscularis propria) hoặc cơ bàng quang (detrusor muscle). Theo NCI, lớp này bao gồm các bó cơ trơn và dày. Lớp cuối cùng ở bên ngoài là mô mềm quanh bàng quang, được gọi là lớp thanh mạc, được tạo thành từ chất béo, mô xơ và mạch máu.
 
Các phần khác của bàng quang nằm ở dưới cùng. Một lỗ (van) ở dưới cùng của bàng quang được kết nối với niệu đạo. Một cơ vòng hình tròn siết chặt để giữ cho van này và niệu đạo không bị rò rỉ nước tiểu.
 
Khi một người đi tiểu, cơ bàng quang co lại để đẩy nước tiểu ra khỏi bàng quang, trong khi cơ vòng giãn ra để mở van thông bàng quang và niệu đạo. Van ở đáy bàng quang mở ra đẩy nước tiểu vào niệu đạo, từ đây nước tiểu sẽ được thải ra khỏi cơ thể.
 
Các bệnh tật nào liên quan đến bàng quang?
 
Có nhiều loại bệnh tật có thể bắt nguồn từ bàng quang.
 
Adam Ramin, bác sĩ phẫu thuật tiết niệu và là người sáng lập Urology Cancer Specialists ở California, cho biết các vấn đề về bàng quang thường gặp nhất ở phụ nữ là tiểu rắt (thường xuyên mắc tiểu) và tiểu són (nước tiểu rò rỉ). Tiểu rắt và tiểu són thường là do bàng quang bị suy giảm khả năng và hoạt động quá mức (chứng bàng quang tăng hoạt động). Theo Urology Care Foundation, chứng bàng quang tăng hoạt động (overactive bladder) có thể do nhiều tình trạng gây ra, bao gồm yếu cơ vùng chậu và đột quỵ. Rò rỉ nước tiểu, hoặc tiểu không tự chủ (tiểu són - Incontinence Urine), cũng có thể do bàng quang bị co thắt hoặc áp lực. Đôi khi các bác sĩ sẽ sử dụng nẹp bàng quang để điều trị chứng tiểu không tự chủ do áp lực.
 
Bác sĩ Ramin nói với tạp chí Live Science: “Các vấn đề về bàng quang phổ biến nhất ở nam giới là chứng tiểu đêm và tiểu không hết (incomplete), thường là do tuyến tiền liệt phì đại gây cản trở khiến bàng quang tống không hết nước tiểu ra.”
 
Nhiễm trùng bàng quang (Bladder infections) có thể là một nguyên nhân khác của việc đi tiểu thường xuyên. Theo Harvard Health, nhiễm trùng bàng quang, còn gọi là viêm bàng quang (cystitis), là một trong những loại nhiễm trùng do vi khuẩn phổ biến nhất. Có khoảng 1/3 phụ nữ sẽ bị nhiễm trùng bàng quang ít nhất một lần trong đời. Một số triệu chứng bao gồm nóng rát hoặc đau khi đi tiểu, phải đi tiểu nhiều lần (mỗi lần chỉ đi được một lượng nhỏ nước tiểu), muốn đi tiểu gấp, bị đau vùng bụng dưới và nước tiểu đục màu hoặc có máu.
 
Một vấn đề khác liên quan đến bàng quang là ung thư bàng quang. Theo NCI, Hoa Kỳ có khoảng 712,644 người sống chung với bệnh ung thư bàng quang. Theo CDC, bệnh này thường ảnh hưởng đến người cao niên nhiều hơn, dù cũng có người trẻ mắc bệnh ung thư bàng quang. Một số triệu chứng của ung thư bàng quang bao gồm có máu trong nước tiểu, đi tiểu thường xuyên hoặc đau đớn khi tiểu, và bị đau lưng hoặc đau vùng chậu.
 
Sa thành trước âm đạo (anterior prolapse), còn được gọi là sa bàng quang (prolapsed bladder) hoặc sa bàng quang vào âm đạo (cystocele), là một vấn đề về bàng quang điển hình của phụ nữ. Nó xảy ra khi các mô giữa bàng quang và thành âm đạo của phụ nữ yếu đi do bị áp lực. Theo Urology Care Foundation, sự suy yếu này khiến cho các mô căng ra và bàng quang phình vào âm đạo.
 
Sỏi bàng quang (bladder stones) là do nước tiểu cô đặc kết tinh trong bàng quang. Theo NIH, những người bị tiểu không hết sẽ thường bị sỏi bàng quang. Có nhiều viên sỏi bàng quang nhỏ đến mức mắt thường không thể nhìn thấy, nhưng cũng từng có trường hợp một người đàn ông được phát hiện có một viên sỏi bàng quang hình quả trứng nặng 1.7 lbs. (770 gam), có kích thước 4.7 x 3.7 x 3 inch (12 x 9.5 x 7.5 cm). Tuy nhiên, đây không phải là viên sỏi bàng quang lớn nhất được ghi nhận. Viên sỏi bàng quang lớn nhất từng được ghi dận có kích thước 7 x 5 x 3.7 inch (17.9 x 12.7 x 9.5 cm) và nặng 4.2 lbs. (1.9 kg), theo Guinness World Records.
 
Làm thế nào để giữ cho bàng quang khỏe mạnh?
 
Đôi khi, chúng ta phải nhịn tiểu vì trường hợp bất khả kháng, nhưng điều đó có thể không tốt cho bàng quang. Bác sĩ Ramin nói: “Nhịn tiểu trong một thời gian ngắn, khoảng một tiếng thôi thì thường không sao cả. Tuy nhiên, nhịn tiểu quá lâu và thường xuyên có thể khiến dung tích bàng quang bị nở rộng quá mức, truyền áp lực sang thận, và khiến bàng quang bị mất khả năng làm trống hoàn toàn. Những vấn đề này có thể dẫn đến UTI [nhiễm trùng đường tiết niệu], viêm bàng quang và suy giảm chức năng thận.”
 
Uống nhiều nước mỗi ngày cũng có thể giúp ngăn ngừa sỏi bàng quang, giúp ngăn các chất khoáng tập trung mật độ cao, tạo thành sỏi. Urology Care Foundation khuyên mọi người nên uống từ 6 đến 8 ly nước mỗi ngày, cũng như giảm sử dụng caffein và rượu.
 
Việt Báo phỏng dịch theo bài viết “Bladder: Facts, function and diseases” của Anna Gora, được đăng trên trang LiveScience.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu thuở nhỏ quý vị từng bị rầy la vì vụ đọc sách, truyện trong bóng tối hoặc nếu có xài mắt kính chặn ánh sáng xanh khi làm việc trên máy tính, thì có thể quý vị chưa hiểu đúng về sức khỏe của mắt. Theo Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bịnh (CDC), ở Hoa Kỳ cứ 10 người trưởng thành thì có khoảng 4 người có nguy cơ cao bị suy giảm thị lực. Bác sĩ Joshua Ehrlich, giảng sư về nhãn khoa và khoa học thị giác tại Trường Michigan cho biết, có nhiều bịnh về mắt có thể điều trị hoặc phòng ngừa được. Và sau đây là một số niềm tin phổ biến của mọi người về thị lực và những nhận xét của các chuyên gia.
Gần đây các tin thời sự nói nhiều về vấn đề sinh sản. Những nước Á châu đang phát triển kinh tế tột bực như Nhật, Đài Loan và Đại Hàn đều gặp phải vấn đề mức sinh sản quá thấp. Phụ nữ các xứ này học càng ngày càng lâu, lập gia đình chậm hoặc từ chối lập gia đình, có con ít hoặc chọn lựa không sinh con cái để tiếp tục sự nghiệp cá nhân, nếp sống tự do không vướng bận con cái, hoặc lo ngại không đủ tiền của để giáo dục nuôi dưỡng một đứa trẻ.
Một nhóm các nhà nghiên cứu vây quanh Keith Thomas, 45 tuổi, và nhìn chằm chằm vào bàn tay phải của ông. “Mở ra nào, mở ra nào, mở ra nào,” họ thúc giục, và reo hò khi những ngón tay của Thomas xòe ra và cuộn lại theo các hình ảnh trên màn hình máy tính. Vào tháng 7 năm 2020, bị tai nạn trong một chuyến đi lặn, Thomas bị liệt từ ngực trở xuống. Nhưng giờ đây, ông đã có thể cử động tay trở lại sau một thử nghiệm lâm sàng thực hiện bởi các nhà nghiên cứu từ Feinstein Institutes for Medical Research của Northwell Health ở New York.
Mùa hè đang vẫy gọi với những chuyến du lịch sôi động, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi số ca nhiễm COVID-19 dần tăng trở lại. Một số tiểu bang ở Hoa Kỳ, số người phải vào bệnh viện do COVID-19 cũng đang tăng, đặc biệt là những người cao niên. Theo Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bịnh (CDC), số người phải vào bệnh viện hàng tuần đã tăng nhẹ kể từ giữa tháng 6, từ khoảng 6,300 ca lên hơn 8,000 ca trong tuần kết thúc vào ngày 22 tháng 7. Kể từ khi kết thúc tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng do COVID-19 vào tháng 5, CDC không còn báo cáo về số ca nhiễm COVID-19 trên toàn quốc. Điều này có nghĩa là các sở y tế của tiểu bang không còn phải báo cáo dữ liệu này cho CDC.
Giác mạc (cornea) là một lớp mô cứng, trong suốt bao phủ phía trước mắt. Nó giúp tập trung ánh sáng vào võng mạc (retina). Nếu giác mạc bị tổn thương do bệnh tật hoặc chấn thương, nó có thể gây ảnh hưởng đến thị lực. Trên toàn thế giới, gần 13 triệu người bị mù do các vấn đề về giác mạc.
Các phòng khám ‘lang băm’ hô hào có bán các liệu pháp tế bào gốc (stem cell therapies) mọc lên nhan nhản khắp mọi nơi. Trên thế giới, có hàng ngàn phòng khám, cơ sở tuyên bố có thể chữa được bách bệnh, từ bệnh tự kỷ cho đến bại não. Những nơi có nhiều ‘phòng khám trị liệu tế bào gốc’ nhất là ở Hoa Kỳ, Mexico, Ấn Độ và Trung Quốc. Rất nhiều người đang đi khắp mọi nơi để tiếp cận những phương pháp điều trị này, dẫn đến một hiện tượng được gọi là du lịch tế bào gốc (stem cell tourism).
Cứ bốn năm ngàn bé trai ra đời là có một bé bị một chứng bệnh di truyền làm chúng bại liệt, yếu dần và tử vong sớm. Ngày 22 tháng 6, 2023 Cơ quan quản trị thực phẩm và thuốc của Hoa Kỳ FDA chuẩn thuận một trị liệu dùng gen (di thể) mới nhất, với giá cao chưa từng thấy là trên 3 triệu đô la cho mỗi liều thuốc (may mắn là chỉ cần một liều duy nhất). Trước hết chúng ta bàn về bệnh này. Tên của bệnh là “loạn dưỡng cơ Duchenne” dịch từ danh từ khoa học quốc tế: tiếng Anh là Duchenne Muscular Dystrophy (DMD). Duchenne là tên của một bác sĩ chuyên khoa thần kinh tiên phong thế kỷ thứ 18 công bố về bịnh này (sau vài người khác) và bs đầu tiên làm sinh thiết (biopsy) các cơ bắp trong những đứa trẻ bị liệt trong bịnh này.
Một loại thuốc hứa hẹn mới sẽ là phương pháp đầu tiên trên thế giới giúp người lớn có thể mọc lại răng một cách tự nhiên, hoặc giúp trẻ em mắc chứng “anodontia” bẩm sinh có thể mọc răng như bình thường. Nghiên cứu mới do các khoa học gia tại Trường Kyoto và Trường Fukui thực hiện, dẫn đầu bởi Katsu Takahashi. Ông cho biết: “(Phương pháp) làm mọc răng mới là giấc mơ của mọi nha sĩ. Tôi đã nghiên cứu nó từ khi còn là sinh viên. Tôi tin rằng mình có thể làm được điều đó.”
Hiện nay, có khoảng 10% người dân Hoa Kỳ mắc bệnh ù tai (tinnitus) dạng nặng. Chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi trong tai luôn có tiếng ù ù và o o dù không có bất kỳ tác động nào từ môi trường bên ngoài. Tuy nhiên, giờ đây, những người bị ù tai sẽ có thêm niềm hy vọng, bởi sắp có một phương pháp điều trị kết hợp sử dụng âm thanh và kích thích điện từ.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ nhanh hơn sự ứng đối của con người như hiện nay không ít người quan ngại về nguy cơ các sản phẩm trí thông minh nhân tạo có thể thoát khỏi tầm kiểm soát của con người. Điều trớ trêu là sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật cũng từ con người mà ra. Hay nói cách khác, chính con người là tác nhân của các sản phẩm khoa học kỹ thuật tân tiến đó lại lo ngại tạo vật của mình. Tuy nhiên, thực tế còn có một nghịch lý khác, đó là cho đến ngày nay, con người thông qua sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật vẫn chưa biết rõ, hay nói chính xác hơn là vẫn chưa chứng minh được bằng phương thức khoa học khách quan ai là tác nhân thực sự của các sản phẩm khoa học kỹ thuật tân tiến đó: tâm trí hay não bộ hay cả hai?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.