Sinh Thiết Lỏng Đã Giúp Thử Nghiệm Ung Thư Dễ Dàng Hơn Như Thế Nào?

10/03/202300:00:00(Xem: 676)
 
Sinh thiết lỏng
Các khoa học gia đang phát triển phương pháp sinh thiết lỏng, sử dụng các chất dịch lỏng trên cơ thể, thường là máu, để sàng lọc ung thư. Ưu điểm của lấy mẫu máu so với lấy mẫu mô là dễ lấy mẫu hơn và cũng có thể lấy được nhiều lần. (Nguồn: pixabay.com)
 
Thử nghiệm sinh thiết (sinh thiết mô – tissue biopsy) đi kèm một số rủi ro và thách thức – một số chỗ cần làm sinh thiết có thể khó tiếp cận, chảy máu và đau đớn có thể kéo dài đến một tháng sau khi làm sinh thiết. Chi phí cao và thời gian đợi kết quả có thể lên tới bốn tuần. Với một người đang bị ung thư ác tính, thì đó là cả một vấn đề.
 
Trong hai thập niên qua, các khoa học gia đã phát triển một giải pháp thay thế: sinh thiết lỏng. Phương pháp mới sử dụng các chất dịch lỏng trên cơ thể, thường là máu, để sàng lọc ung thư. Ưu điểm của lấy mẫu máu so với lấy mẫu mô là dễ lấy mẫu hơn và cũng có thể lấy được nhiều lần. Jeffrey Campbell Thompson, giảng sư về y khoa tại trường Perelman School of Medicine, cho biết mẫu “máu ngoại vi” (peripheral blood) tiêu chuẩn 7.5ml – 10 ml thường sẽ được lấy ở tay, và trả kết quả xét nghiệm sau khoảng một tuần – điều này có thể giúp đẩy nhanh tiến độ điều trị cho các bệnh nhân bị ung thư.
 
Theo Amir Goldkorn, giáo sư tại Trường Y USC Keck và là người sáng lập Liquid Biopsy Core tại USC Norris Comprehensive Cancer Center, sinh thiết lỏng hiện vẫn chưa đủ độ tin cậy để phát hiện người mới mắc bệnh ung thư, nhưng có thể hữu ích để theo dõi hiệu quả của các phương pháp điều trị đang áp dụng cho các bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư.
 
Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết các biện pháp sinh thiết lỏng tốt hơn đang được thử nghiệm và tiến triển nhanh chóng; họ hy vọng công cụ này sẽ sớm có khả năng phát hiện các loại bệnh ung thư ở tất cả các giai đoạn.
 
Cả vũ trụ nằm trong một ống máu
 
Để hiểu cách thức hoạt động của sinh thiết lỏng, điều quan trọng là phải biết bác sĩ đang tìm kiếm cái gì trong mẫu máu và họ có thể làm gì với các thông tin đó. Khi máu được quay trong máy ly tâm, nó sẽ tách thành hai phần chính – phần huyết tương trong suốt, nhẹ hơn, chủ yếu là nước và phần màu đỏ đặc hơn chứa nhiều tế bào khác nhau.
 
Ở bệnh nhân ung thư, phần màu đỏ đặc hơn này cũng có thể chứa các tế bào ung thư sống, rời rạc – được gọi là tế bào ung thư dạng huyền phù (còn gọi là tế bào khối u tuần hoàn, “circulating tumor cells”, CTCs) – xuất phát từ khối u. Erica Carpenter, giảng sư về y khoa kiêm giám đốc Liquid Biopsy Laboratory tại Trường University of Pennsylvania, cho biết khi một khối u phát triển đủ lớn, một số tế bào bị đẩy ra ngoài và lẫn vào dòng máu.
 
Mặc dù hầu hết các tế bào ung thư sẽ chết trong dòng máu, một số sẽ có thể sống sót và ‘chu du’ tới nơi khác rồi tạo ra một khối u mới ở đó; quá trình này gọi là di căn. Theo ông Goldkorn, CTC được xác định bằng cách trích xuất và phân tích DNA của chúng hoặc truy tầm một số protein cụ thể trên bề mặt ngoài của tế bào. Những ‘dấu hiệu’ này có thể chứa manh mối về nguồn gốc của tế bào. Ví dụ, mức độ protein THBS2 cao có thể chỉ ra ung thư tuyến tụy. Mức THBS2 càng cao thì cơ hội sống sót càng thấp.
 
DNA ung thư tự do được tế bào khối u phóng thích vào máu (hay còn gọi là DNA khối u lưu hành – “circulating tumor” DNA hay ctDNA) từ các tế bào ung thư có thể được tìm thấy trong phần huyết tương của mẫu máu. CtDNA chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trên tổng số DNA trong một mẫu. Nhưng khi giải trình tự ctDNA và so sánh nó với DNA từ các tế bào khỏe mạnh, các chuyên gia nghiên cứu có thể xác định các đột biến giúp chỉ ra một loại bệnh ung thư cụ thể.
 
Sinh thiết lỏng hiện đang được tận dụng như thế nào
 
Hiện nay, sinh thiết lỏng được sử dụng rộng rãi để giúp xác định phương pháp điều trị cho bệnh nhân đã được chẩn đoán mắc ung thư. Ông Thompson cho biết tại bệnh viện của ông, bệnh nhân được làm sinh thiết lỏng ngay lần hẹn khám ung thư đầu tiên. Chỉ trong một tuần, xét nghiệm sinh thiết lỏng có thể cung cấp một số thông tin quan trọng, nhưng không đảm bảo sẽ cung cấp các thông tin thúc đẩy hành động (điều trị) đối với bệnh ung thư.
 
Sinh thiết lỏng đã được chứng minh là thành công với các loại ung thư phổi (loại xét nghiệm này thường được sử dụng nhất), tuyến tụy, tuyến tiền liệt, hệ tiêu hóa, thận, da và cả ung thư vú. Vì sinh thiết lỏng có thể được thực hiện dễ dàng, bệnh nhân ung thư cũng có thể được theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình điều trị để xác định xem liệu nó có hiệu quả hay không.
 
Tuy nhiên, việc truy tầm ra dấu vết của ung thư trong máu cũng giống như mò kim đáy bể. Số lượng CTCs là cực kỳ ít ỏi so với tất cả các tế bào khác được tìm thấy trong máu. Goldkorn giải thích: “Một mẫu máu tiêu chuẩn 7.5 ml có thể chứa khoảng 40 tỷ tế bào hồng cầu trong đó. Số lượng CTCs trung bình ta có thể tìm thấy là khoảng 5.” Nói chung, càng tìm thấy nhiều CTC trong máu thì cơ hội sống sót càng thấp.
 
Bởi vì CTCs là những tế bào nguyên vẹn, các dấu hiệu sinh học như thụ thể hormone vẫn có thể được tìm thấy ở bề mặt bên ngoài. Thí dụ, nếu CTC của một bệnh nhân ung thư vú xuất hiện các thụ thể estrogen nhưng không có thụ thể progesterone, điều này có thể cho thấy ung thư đang sử dụng estrogen để phát triển – vì vậy bác sĩ có thể kê toa thuốc làm giảm nồng độ estrogen hoặc ngăn chặn estrogen tác động lên các tế bào ung thư.
 
Theo Carpenter, ctDNA cũng có thể giúp các bác sĩ quyết định giữa liệu pháp miễn dịch (immunotherapy – kích hoạt hệ thống miễn dịch để chống lại ung thư) và một loại thuốc nhắm mục tiêu (targeted medication) nhằm hạn chế thiệt hại cho các tế bào bình thường.
 
Nếu phát hiện có một đột biến EGFR (“Epidermal Growth Factor Receptor” – thụ thể với yếu tố tăng trưởng biểu bì) trong ctDNA, các bác sĩ sẽ biết bệnh nhân đó không có đáp ứng với liệu pháp miễn dịch nhưng có thể sử dụng một loại thuốc nhắm mục tiêu như erlotinib, để ức chế hoạt động của protein EGFR, làm chậm hoặc ngăn chặn sự phát triển của ung thư.
 
Theo ông Thompson, việc giải trình tự DNA kịp thời là vô cùng quan trọng, bởi vì sẽ không tốt nếu ban đầu cho bệnh nhân điều trị bằng liệu pháp miễn dịch rồi sau đó lại chuyển sang liệu pháp thuốc nhắm mục tiêu nếu phát hiện thấy đột biến. Việc chuyển đổi liệu pháp này có thể gây hại cho các bộ phận khỏe mạnh của cơ thể.
 
Rồi đây sinh thiết lỏng sẽ được sử dụng như thế nào?
 
Hạn chế lớn nhất của sinh thiết lỏng hiện nay là độ nhạy của chúng trong việc phát hiện ung thư còn chưa cao. Goldkorn giải thích: Nếu dòng thời gian của bệnh ung thư được chia thành ba phần: chẩn đoán, điều trị và sau điều trị, thì sinh thiết lỏng đang hữu ích nhất ở giai đoạn giữa, lúc các dấu vết ung thư lưu hành nhiều nhất.
 
Các khoa học gia đang nỗ lực để tăng độ nhạy. Trong tương lai, sinh thiết lỏng có thể cho phép chúng ta sàng lọc ung thư trong các xét nghiệm máu thông thường – từ trước khi bệnh nhân phát bệnh. Chúng cũng có thể giúp các bác sĩ theo dõi bệnh nhân để truy tầm dấu vết ung thư còn sót lại.
 
Carpenter cũng hy vọng chúng ta sẽ phát triển các sinh thiết lỏng có thể giúp phát hiện các loại ung thư não, vì những loại bệnh này hầu như chưa thể phát hiện bằng sinh thiết lỏng hiện nay.
 
Chưa tới một thập niên trước, các nhà nghiên cứu cũng chỉ đang phát triển sử dụng sinh thiết lỏng đối với bệnh ung thư phổi, và hiện tại nó đã được sử dụng thường xuyên để chăm sóc bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối. Bà Carpenter hy vọng rằng khi sinh thiết lỏng được tăng độ nhạy, nó sẽ được sử dụng để chẩn đoán các loại ung thư mọi lúc, mọi nơi.
 
Việt Báo phỏng dịch theo bài viết “How liquid biopsies have made it easier to treat cancer” của Allie Yang, được đăng trên trang NationalGeographic.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trầm cảm là một trong những căn bệnh lớn của thời đại. Hơn một phần ba phụ nữ và gần một phần tư đàn ông ở Thụy Điển bị trầm cảm vào một thời điểm nào đó trong đời. Đối với một số người, thì một sự kiện căng thẳng tâm lý nào đó gây ra trầm cảm, ở những người khác, bệnh dường như bùng phát một cách tự nhiên và với một số ít là do tác dụng phụ của thuốc.
Năm 2011, Gert-Jan Oskam đang sống ở Trung Quốc thì bị tai nạn xe máy, khiến ông bị liệt từ phần hông trở xuống. Giờ đây, với sự kết hợp của các máy móc thiết bị hiện đại, các khoa học gia đã giúp ông kiểm soát lại phần thân dưới của mình, theo trang NYTimes đưa tin vào cuối tháng 5 năm 2023.
Ngày 15 tháng 5 năm 2023, Cơ quan Y tế Quốc tế WHO đưa ra hướng dẫn mới nhất của họ về chất làm ngọt thay thế đường (non-sugar sweeteners) và khuyên không nên dùng các chất này để giảm cân. WHO đã tiến hành một cuộc đánh giá có hệ thống với 283 nghiên cứu về chất tạo vị ngọt mà không dùng đường. Nghiên cứu tổng quan này bao gồm cả các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và nghiên cứu quan sát (randomized controlled trials and observational studies).
Một số trẻ nhỏ bị dị ứng có thể ăn đậu phộng với liều lượng thấp mà không bị phản ứng nghiêm trọng sau khi đeo miếng dán trong một năm trong một thử nghiệm lâm sàng. Miếng dán thử nghiệm này có thể giúp giảm bớt căng thẳng cho các gia đình có trẻ nhỏ bị dị ứng. Theo kết quả của một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn cuối, đối với trẻ mới biết đi bị dị ứng với đậu phộng, một miếng dán da mới có thể làm tăng khả năng chịu đựng của các em đối với loại đậu này.
Số ca tử vong do Covid-19 ở Hoa Kỳ hiện đã xuống mức thấp nhất kể từ tháng 3 năm 2020, theo dữ liệu của Trung tâm Kiểm Soát và Phòng Dịch Bệnh. Tỷ lệ ca bệnh cũng giảm ở mức tương tự, mặc dù việc lây nhiễm trở nên khó theo dõi hơn do các xét nghiệm nhanh tại nhà được phổ biến rộng rãi; nhiều hệ thống giám sát được thiết lập vào đầu đại dịch cũng đã ngừng hoạt động.
Toát mồ hôi về đêm là một hiện tượng khá phổ biến, và cách giải quyết cũng đơn giản. Tuy nhiên, cũng cần chú ý một số nguyên nhân đáng lo ngại. Chúng ta thường nghĩ rằng nhiệt độ cơ thể người bình thường là 98.6 độ F (37 độ C), nhưng thực tế là nhiệt độ đó sẽ thay đổi trong chu kỳ 24 giờ theo nhịp sinh học của chúng ta. Ngay trước khi đi ngủ, nhiệt độ cơ thể của chúng ta bắt đầu giảm xuống, và sẽ đạt mức thấp nhất là khoảng 97.7 độ F trước khi chúng ta thức dậy khoảng ba tiếng. Đây là mức giảm nhiệt tối thiểu, nhưng để giữ cho cơ thể ở nhiệt độ đó, nhiều người thường phản ứng lại bằng cách đổ mồ hôi – đặc biệt nếu nhiệt độ bên ngoài quá nóng.
Mọi người thỉnh thoảng sẽ bị nấc cụt và đôi khi các cơn nấc cụt khá lì lợm, không chịu biến đi. Nấc cụt là sự co thắt không chủ ý của cơ hoành (diaphragm) – cơ ngăn cách phần ngực với phần bụng, đóng vai trò chính trong việc hít thở – sau đó là các dây thanh âm đóng lại đột ngột.
Bệnh Mất Trí (Alzheimer) là chứng bịnh mà các tế bào thần kinh trong não bị teo đi. Đó là do sự tích tụ bất thường của protein beta-amyloid và protein tau. Nghiên cứu về các loại thuốc chống lại bệnh Alzheimer cho thấy rằng nên điều trị sớm trong quá trình điều trị bệnh, trước khi quá nhiều tế bào thần kinh của não bị chết.
Số lượng người trên thế giới sống chung với bệnh suy tim ngày càng tăng, suy tim là tình trạng cơ tim bị suy yếu và không thể bơm đủ lượng máu cần thiết để cung cấp đủ oxy và chất dinh dưỡng cho cơ thể. Người bệnh bị suy tim sẽ suy giảm khả năng hoạt động, suy giảm chất lượng sống, tùy từng mức độ sẽ cần sự hỗ trợ khác nhau. Ngoài ra người bệnh suy tim nặng sẽ đứng trước nguy cơ tử vong cao. Có những phương pháp điều trị làm chậm quá trình này, nhưng không có phương pháp nào trực tiếp làm tăng khả năng bơm máu của tim.
Các chuyên gia nghiên cứu tại Trường University of Miami đã báo cáo hai trường hợp đầu tiên được xác nhận vi rút SARS-CoV-2 truyền qua nhau thai và gây tổn thương não cho thai nhi, theo trang Reuters đưa tin ngày Thứ Năm, 6 tháng 4 năm 2023. Theo nhóm nghiên cứu, trước đây, các bác sĩ đã nghi ngờ điều này có thể xảy ra nhưng chưa tìm được bằng chứng trực tiếp nào cho thấy vi rút COVID-19 tồn tại trong nhau thai hoặc não của trẻ sơ sinh.
300x250_CTA-Vietnamese-NguoiViet
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.