Hôm nay,  

Sinh Thiết Lỏng Đã Giúp Thử Nghiệm Ung Thư Dễ Dàng Hơn Như Thế Nào?

10/03/202300:00:00(Xem: 1290)
 
Sinh thiết lỏng
Các khoa học gia đang phát triển phương pháp sinh thiết lỏng, sử dụng các chất dịch lỏng trên cơ thể, thường là máu, để sàng lọc ung thư. Ưu điểm của lấy mẫu máu so với lấy mẫu mô là dễ lấy mẫu hơn và cũng có thể lấy được nhiều lần. (Nguồn: pixabay.com)
 
Thử nghiệm sinh thiết (sinh thiết mô – tissue biopsy) đi kèm một số rủi ro và thách thức – một số chỗ cần làm sinh thiết có thể khó tiếp cận, chảy máu và đau đớn có thể kéo dài đến một tháng sau khi làm sinh thiết. Chi phí cao và thời gian đợi kết quả có thể lên tới bốn tuần. Với một người đang bị ung thư ác tính, thì đó là cả một vấn đề.
 
Trong hai thập niên qua, các khoa học gia đã phát triển một giải pháp thay thế: sinh thiết lỏng. Phương pháp mới sử dụng các chất dịch lỏng trên cơ thể, thường là máu, để sàng lọc ung thư. Ưu điểm của lấy mẫu máu so với lấy mẫu mô là dễ lấy mẫu hơn và cũng có thể lấy được nhiều lần. Jeffrey Campbell Thompson, giảng sư về y khoa tại trường Perelman School of Medicine, cho biết mẫu “máu ngoại vi” (peripheral blood) tiêu chuẩn 7.5ml – 10 ml thường sẽ được lấy ở tay, và trả kết quả xét nghiệm sau khoảng một tuần – điều này có thể giúp đẩy nhanh tiến độ điều trị cho các bệnh nhân bị ung thư.
 
Theo Amir Goldkorn, giáo sư tại Trường Y USC Keck và là người sáng lập Liquid Biopsy Core tại USC Norris Comprehensive Cancer Center, sinh thiết lỏng hiện vẫn chưa đủ độ tin cậy để phát hiện người mới mắc bệnh ung thư, nhưng có thể hữu ích để theo dõi hiệu quả của các phương pháp điều trị đang áp dụng cho các bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư.
 
Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết các biện pháp sinh thiết lỏng tốt hơn đang được thử nghiệm và tiến triển nhanh chóng; họ hy vọng công cụ này sẽ sớm có khả năng phát hiện các loại bệnh ung thư ở tất cả các giai đoạn.
 
Cả vũ trụ nằm trong một ống máu
 
Để hiểu cách thức hoạt động của sinh thiết lỏng, điều quan trọng là phải biết bác sĩ đang tìm kiếm cái gì trong mẫu máu và họ có thể làm gì với các thông tin đó. Khi máu được quay trong máy ly tâm, nó sẽ tách thành hai phần chính – phần huyết tương trong suốt, nhẹ hơn, chủ yếu là nước và phần màu đỏ đặc hơn chứa nhiều tế bào khác nhau.
 
Ở bệnh nhân ung thư, phần màu đỏ đặc hơn này cũng có thể chứa các tế bào ung thư sống, rời rạc – được gọi là tế bào ung thư dạng huyền phù (còn gọi là tế bào khối u tuần hoàn, “circulating tumor cells”, CTCs) – xuất phát từ khối u. Erica Carpenter, giảng sư về y khoa kiêm giám đốc Liquid Biopsy Laboratory tại Trường University of Pennsylvania, cho biết khi một khối u phát triển đủ lớn, một số tế bào bị đẩy ra ngoài và lẫn vào dòng máu.
 
Mặc dù hầu hết các tế bào ung thư sẽ chết trong dòng máu, một số sẽ có thể sống sót và ‘chu du’ tới nơi khác rồi tạo ra một khối u mới ở đó; quá trình này gọi là di căn. Theo ông Goldkorn, CTC được xác định bằng cách trích xuất và phân tích DNA của chúng hoặc truy tầm một số protein cụ thể trên bề mặt ngoài của tế bào. Những ‘dấu hiệu’ này có thể chứa manh mối về nguồn gốc của tế bào. Ví dụ, mức độ protein THBS2 cao có thể chỉ ra ung thư tuyến tụy. Mức THBS2 càng cao thì cơ hội sống sót càng thấp.
 
DNA ung thư tự do được tế bào khối u phóng thích vào máu (hay còn gọi là DNA khối u lưu hành – “circulating tumor” DNA hay ctDNA) từ các tế bào ung thư có thể được tìm thấy trong phần huyết tương của mẫu máu. CtDNA chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trên tổng số DNA trong một mẫu. Nhưng khi giải trình tự ctDNA và so sánh nó với DNA từ các tế bào khỏe mạnh, các chuyên gia nghiên cứu có thể xác định các đột biến giúp chỉ ra một loại bệnh ung thư cụ thể.
 
Sinh thiết lỏng hiện đang được tận dụng như thế nào
 
Hiện nay, sinh thiết lỏng được sử dụng rộng rãi để giúp xác định phương pháp điều trị cho bệnh nhân đã được chẩn đoán mắc ung thư. Ông Thompson cho biết tại bệnh viện của ông, bệnh nhân được làm sinh thiết lỏng ngay lần hẹn khám ung thư đầu tiên. Chỉ trong một tuần, xét nghiệm sinh thiết lỏng có thể cung cấp một số thông tin quan trọng, nhưng không đảm bảo sẽ cung cấp các thông tin thúc đẩy hành động (điều trị) đối với bệnh ung thư.
 
Sinh thiết lỏng đã được chứng minh là thành công với các loại ung thư phổi (loại xét nghiệm này thường được sử dụng nhất), tuyến tụy, tuyến tiền liệt, hệ tiêu hóa, thận, da và cả ung thư vú. Vì sinh thiết lỏng có thể được thực hiện dễ dàng, bệnh nhân ung thư cũng có thể được theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình điều trị để xác định xem liệu nó có hiệu quả hay không.
 
Tuy nhiên, việc truy tầm ra dấu vết của ung thư trong máu cũng giống như mò kim đáy bể. Số lượng CTCs là cực kỳ ít ỏi so với tất cả các tế bào khác được tìm thấy trong máu. Goldkorn giải thích: “Một mẫu máu tiêu chuẩn 7.5 ml có thể chứa khoảng 40 tỷ tế bào hồng cầu trong đó. Số lượng CTCs trung bình ta có thể tìm thấy là khoảng 5.” Nói chung, càng tìm thấy nhiều CTC trong máu thì cơ hội sống sót càng thấp.
 
Bởi vì CTCs là những tế bào nguyên vẹn, các dấu hiệu sinh học như thụ thể hormone vẫn có thể được tìm thấy ở bề mặt bên ngoài. Thí dụ, nếu CTC của một bệnh nhân ung thư vú xuất hiện các thụ thể estrogen nhưng không có thụ thể progesterone, điều này có thể cho thấy ung thư đang sử dụng estrogen để phát triển – vì vậy bác sĩ có thể kê toa thuốc làm giảm nồng độ estrogen hoặc ngăn chặn estrogen tác động lên các tế bào ung thư.
 
Theo Carpenter, ctDNA cũng có thể giúp các bác sĩ quyết định giữa liệu pháp miễn dịch (immunotherapy – kích hoạt hệ thống miễn dịch để chống lại ung thư) và một loại thuốc nhắm mục tiêu (targeted medication) nhằm hạn chế thiệt hại cho các tế bào bình thường.
 
Nếu phát hiện có một đột biến EGFR (“Epidermal Growth Factor Receptor” – thụ thể với yếu tố tăng trưởng biểu bì) trong ctDNA, các bác sĩ sẽ biết bệnh nhân đó không có đáp ứng với liệu pháp miễn dịch nhưng có thể sử dụng một loại thuốc nhắm mục tiêu như erlotinib, để ức chế hoạt động của protein EGFR, làm chậm hoặc ngăn chặn sự phát triển của ung thư.
 
Theo ông Thompson, việc giải trình tự DNA kịp thời là vô cùng quan trọng, bởi vì sẽ không tốt nếu ban đầu cho bệnh nhân điều trị bằng liệu pháp miễn dịch rồi sau đó lại chuyển sang liệu pháp thuốc nhắm mục tiêu nếu phát hiện thấy đột biến. Việc chuyển đổi liệu pháp này có thể gây hại cho các bộ phận khỏe mạnh của cơ thể.
 
Rồi đây sinh thiết lỏng sẽ được sử dụng như thế nào?
 
Hạn chế lớn nhất của sinh thiết lỏng hiện nay là độ nhạy của chúng trong việc phát hiện ung thư còn chưa cao. Goldkorn giải thích: Nếu dòng thời gian của bệnh ung thư được chia thành ba phần: chẩn đoán, điều trị và sau điều trị, thì sinh thiết lỏng đang hữu ích nhất ở giai đoạn giữa, lúc các dấu vết ung thư lưu hành nhiều nhất.
 
Các khoa học gia đang nỗ lực để tăng độ nhạy. Trong tương lai, sinh thiết lỏng có thể cho phép chúng ta sàng lọc ung thư trong các xét nghiệm máu thông thường – từ trước khi bệnh nhân phát bệnh. Chúng cũng có thể giúp các bác sĩ theo dõi bệnh nhân để truy tầm dấu vết ung thư còn sót lại.
 
Carpenter cũng hy vọng chúng ta sẽ phát triển các sinh thiết lỏng có thể giúp phát hiện các loại ung thư não, vì những loại bệnh này hầu như chưa thể phát hiện bằng sinh thiết lỏng hiện nay.
 
Chưa tới một thập niên trước, các nhà nghiên cứu cũng chỉ đang phát triển sử dụng sinh thiết lỏng đối với bệnh ung thư phổi, và hiện tại nó đã được sử dụng thường xuyên để chăm sóc bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối. Bà Carpenter hy vọng rằng khi sinh thiết lỏng được tăng độ nhạy, nó sẽ được sử dụng để chẩn đoán các loại ung thư mọi lúc, mọi nơi.
 
Việt Báo phỏng dịch theo bài viết “How liquid biopsies have made it easier to treat cancer” của Allie Yang, được đăng trên trang NationalGeographic.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.