Hôm nay,  

Chỉ Đơn Giản Thử Nghiệm Nước Bọt Có Thể Phát Hiện Sớm Bịnh Alzheimer

03/03/202300:00:00(Xem: 1464)
Alzheimer
Một xét nghiệm nước bọt đơn giản để theo dõi các phân tử trong não có thể phát hiện bệnh Alzheimer và Parkinson  rất lâu trước khi các triệu chứng xuất hiện. (Nguồn:Unplash)
                                                     
Một xét nghiệm nước bọt đơn giản để theo dõi các phân tử trong não có thể phát hiện bệnh Alzheimer và Parkinson  rất lâu trước khi các triệu chứng xuất hiện. (Nguồn:Unplash)
  
Alzheimer và Parkinson là hai trong số các bệnh thần kinh phổ biến nhất dẫn đến sự phá vỡ các tế bào thần kinh của não. Mỗi năm đều có hàng ngàn người phát hiện bị mắc bịnh và vào thời điểm có thể chẩn đoán được, thì não đã bị tổn thương suốt một thời gian dài.
 
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Luleå, Thụy Điển đã đưa ra một phương pháp mới để phát hiện sớm các bệnh này, bằng cách thông qua một mẫu nước bọt đơn giản, các phân tử đến từ não có thể được phân tích, theo tin từ báo khoa học Forskning, Thụy Điển. 
 
Với phương pháp này, có thể chẩn đoán bệnh mười năm trước khi các triệu chứng đầu tiên xuất hiện.
 
“Những căn bệnh này ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của con người. Một mẫu nước bọt là một phương pháp đơn giản để có thể phát hiện bịnh sớm. Điều này tạo cơ hội để sớm đưa ra các biện pháp giúp cho cá nhân người mắc bịnh và tạo ra sự khác biệt lớn trong cuộc sống của họ. Nó cũng tạo cơ hội để hiểu rõ hơn về căn bệnh này, từ đó có thể dẫn đến các loại thuốc mới.” Vaibhav Sharma, nhà nghiên cứu tại Đại học Luleå cho biết
 
Phương pháp này sử dụng phân tử exosome – những túi ngoại bào nhỏ có kích thước cực  nhỏ được tế bào sống trong cơ thể tiết ra, và được lưu hành trong các dịch cơ thể như máu, nước tiểu, nước bọt…
 
Khi exosome lần đầu tiên được phát hiện vào những năm 1980, người ta cho rằng các túi ngoại bào này là rác mà các tế bào đã loại bỏ. Những năm nghiên cứu gần đây đã cho thấy rằng chức năng chính của exosome là mang thông tin, đóng vai trò quan trọng trong quá trình tương tác giữa các tế bào trong cơ thể. Những exosome này mang thông tin như những lá thư bỏ trong chai gửi đi, những chiếc chai này đến đúng địa chỉ người nhận nhờ những tế bào protein bao bọc trên bề mặt của chúng.
 
Giữa não và phần còn lại của cơ thể là hàng rào máu não, một lớp bảo vệ cho các tế bào não có nghĩa là các phân tử lớn không thể ra vào. Nhưng exosome quá nhỏ nên chúng có thể vượt qua rào cản và cho biết điều gì đang diễn ra trong não.
 
Các nhà nghiên cứu hiện đã có thể chẩn đoán bệnh Parkinson và Alzheimer bằng cách phân tích exosome trong nước bọt, và qua các protein trên bề mặt của chúng, họ có thể phân biệt exosome nào đến từ tế bào não.
 
Để phân tích được số lượng và kích thước, các nhà nghiên cứu đã đo chuyển động của exosome bằng tia laser. Bằng cách này, các exosome có thể cho biết liệu có dấu hiệu của bệnh hay không, cũng như cho thấy bệnh đã tiến triển đến đâu. 
 
Công nghệ mà các nhà nghiên cứu sử dụng đã có sẵn từ trước, nhưng ứng dụng thì hoàn toàn mới. Các nhà nghiên cứu đã tập trung vào bệnh Parkinson và Alzheimer, nhưng cũng có thể phát triển phương pháp này cho các bệnh thần kinh khác, chẳng hạn như ALS. (Bệnh xơ cứng teo cơ một bên (hội chứng ALS) là một bệnh lý liên quan đến hệ thần kinh, xảy ra khi một số tế bào nơron ở não và tủy sống dần chết đi.)
 
“Điều thúc đẩy chúng tôi là khả năng phát hiện bệnh càng sớm càng tốt. Chúng ta đã biết rằng các quá trình phân hủy phân tử bắt đầu từ rất lâu trước khi các triệu chứng xuất hiện. Đây là một phương pháp có khả năng phát hiện những thay đổi trước khi não bị hỏng quá nhiều khiến việc điều trị trở nên khó khăn hơn”. Fredrik Nikolajeff, giáo sư tại Đại học Luleå cho biết.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
Theo Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA), khoảng 9 trong số 10 toa thuốc ở Hoa Kỳ có kê thuốc đồng dạng (thuốc generic) của một loại thuốc nguyên gốc (brand name). Tuy nhiên, có thể sẽ có nhiều người không biết là loại thuốc họ mua ở hiệu thuốc là thuốc đồng dạng hay thuốc nguyên gốc. Vậy hai loại thuốc này có gì khác biệt không? Và nếu có, nó có quan trọng không?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.