Khi cơ thể bạn chống lại nhiễm trùng, bạn sẽ bị sốt. Nếu bạn bị viêm khớp, khớp của bạn sẽ bị đau. Nếu một con ong chích vào tay bạn, bàn tay của bạn sẽ tấy đỏ, sưng lên và cứng lại. Đây đều là những biểu hiện của tình trạng viêm nhiễm xảy ra trong cơ thể.
Trong khi chứng viêm thường liên quan đến cơn đau do chấn thương hoặc do nhiều căn bệnh mà nó có thể gây ra, đây là một phần quan trọng của phản ứng miễn dịch bình thường. Vấn đề phát sinh khi chức năng thông thường hữu ích này phản ứng thái quá hoặc quá lâu so với thời hạn cần thiết.
Viêm là gì?
Hãy lấy ví dụ từ trường hợp một con ong đốt vào da thịt. Hệ thống miễn dịch giống như một đơn vị quân đội với nhiều loại công cụ trong kho vũ khí của nó. Sau khi cảm nhận được chất độc, nhìn thấy vi khuẩn và cảm giác tổn thương từ vết đốt, hệ thống miễn dịch sẽ triển khai nhiều loại tế bào miễn dịch khác nhau đến vị trí vết đốt. Chúng bao gồm các tế bào T, tế bào B, đại thực bào và bạch cầu trung tính, và một số các tế bào khác.
Các tế bào B tạo ra các kháng thể. Những kháng thể đó có thể tiêu diệt bất kỳ vi khuẩn nào trong vết thương và vô hiệu hóa chất độc từ vết chích. Đại thực bào và bạch cầu trung tính nhấn chìm vi khuẩn và tiêu diệt chúng. Các tế bào T không tạo ra kháng thể, nhưng tiêu diệt bất kỳ tế bào bị nhiễm vi-rút nào để ngăn chặn sự lây lan của vi-rút.
Ngoài ra, các tế bào miễn dịch này tạo ra hàng trăm loại phân tử được gọi là cytokine – còn được gọi là chất trung gian – giúp chống lại các mối đe dọa và sửa chữa tác hại đối với cơ thể. Nhưng cũng giống như trong một cuộc tấn công quân sự, tình trạng viêm nhiễm đi kèm với thiệt hại tài sản thế chấp.
Các chất trung gian giúp tiêu diệt vi khuẩn cũng tiêu diệt một số tế bào khỏe mạnh. Các phân tử trung gian tương tự khác khiến các mạch máu bị rỉ, dẫn đến sự tích tụ chất lỏng và dòng tế bào miễn dịch nhiều hơn.
Tổn thương phụ này là lý do khiến bạn bị sưng, tấy đỏ và đau xung quanh vết ong đốt hoặc sau khi tiêm phòng cúm. Sau khi hệ thống miễn dịch loại bỏ nhiễm trùng hoặc tác nhân ngoại lai – dù là độc tố trong vết ong đốt hay hóa chất từ môi trường – các phần khác nhau của phản ứng viêm sẽ tiếp quản và giúp sửa chữa các mô bị tổn thương.
Sau một vài ngày, cơ thể bạn sẽ trung hòa chất độc từ vết đốt, loại bỏ bất kỳ vi khuẩn nào xâm nhập vào bên trong và chữa lành bất kỳ mô nào bị tổn hại.
Viêm là nguyên nhân gây bệnh
Viêm là con dao hai lưỡi. Nó rất quan trọng để chống nhiễm trùng và sửa chữa các mô bị tổn thương, nhưng khi tình trạng viêm nhiễm xảy ra vì những lý do sai lầm hoặc trở thành mãn tính, tổn thương mà nó gây ra có thể gây hại.
Ví dụ, dị ứng phát triển khi hệ thống miễn dịch nhận nhầm các chất vô hại – như đậu phộng hoặc phấn hoa –là thứ nguy hiểm. Tác hại có thể nhỏ, chẳng hạn như ngứa da hoặc nguy hiểm nếu cổ họng bị sưng và nghẹt lại.
Tình trạng viêm mãn tính làm tổn thương các mô theo thời gian và có thể dẫn đến nhiều rối loạn lâm sàng không nhiễm trùng, bao gồm các bệnh tim mạch, rối loạn thoái hóa thần kinh, béo phì, tiểu đường và một số loại ung thư.
Hệ thống miễn dịch đôi khi có thể nhầm lẫn tưởng rằng các cơ quan và mô của chính cơ thể mình là những kẻ xâm lược, chống phá và đánh lại chúng, dẫn đến tình trạng viêm khắp cơ thể hoặc ở những khu vực cụ thể. Tình trạng viêm nhắm vào các mục tiêu này là nguyên nhân gây ra các triệu chứng của các bệnh tự miễn dịch như bệnh lupus và viêm khớp.
Một nguyên nhân khác gây viêm mãn tính mà các nhà nghiên cứu hiện đang nghiên cứu là những khiếm khuyết trong cơ chế làm giảm viêm sau khi cơ thể loại bỏ nhiễm trùng.
Mặc dù tình trạng viêm chủ yếu diễn ra ở cấp độ tế bào trong cơ thể, nhưng nó không phải là một cơ chế đơn giản xảy ra một cách cô lập. Tinh thần căng thẳng, chế độ ăn uống và dinh dưỡng, cũng như các yếu tố di truyền và môi trường, tất cả đều được chứng minh là có thể ảnh hưởng đến chứng viêm theo một cách nào đó.
Vẫn còn nhiều điều cần tìm hiểu về nguyên nhân dẫn đến các dạng viêm có hại, nhưng chế độ ăn uống lành mạnh và tránh căng thẳng có thể giúp duy trì sự cân bằng tinh tế giữa phản ứng miễn dịch mạnh mẽ và tình trạng viêm mãn tính có hại.
Việt Báo dịch
Bà gốc từ Prakash Nagarkatti và Mitzi Nagarkatti, đăng trên tạp chí The Conversation
Gửi ý kiến của bạn