Hôm nay,  

Vài Câu Chuyện Về Covid-19

23/09/202200:00:00(Xem: 2337)

 

covid
Hình minh họa

  

Ngày 14 tháng 9, 2022, Tổng Giám đốc WHO, Tedros Adhanom Ghebreyesus tuyên bố thế giới chưa bao giờ ở trong tình trạng tốt hơn để chấm dứt đại dịch COVID-19 và kêu gọi các quốc gia tiếp tục nỗ lực chống lại loại virus đã giết chết hơn sáu triệu người. Tuy nhiên, ông nói: “Chúng ta vẫn chưa đến đó”. Đây được xem là nhận xét lạc quan nhất từ cơ quan Liên Hiệp Quốc kể từ khi WHO tuyên bố COVID-19 là tình trạng khẩn cấp quốc tế và gọi virus này là đại dịch vào tháng 3 năm 2020 (VOA).
 
Chúng ta nay có vẻ đã bước qua thời kỳ “ sống với Covid-19” thay vì không chấp nhận “Zero Covid” như trước đây, mặc dù một số nơi như Trung Quốc vẫn áp dụng chính sách “Zero Covid” cô lập hàng triệu người khi phác giác chỉ một vài trường hợp.
 
1) Những lỗi lầm trong mấy năm qua
 
Vừa rồi báo y học nổi tiếng của Anh đã đưa ra một báo cáo của một ủy ban (The Lancet Covid -19 Commission)(1) về các biện pháp chống Covid trong mấy năm qua và trách cứ Cơ quan Y tế quốc tế WHO, chính phủ Mỹ và những chính phủ khác về những thất bại nghiệm trọng trong việc phối hợp chống đại dịch, đồng thời đưa ra những khuyến cáo cho những dịch khác có thể xảy ra, và làm thức dậy những câu hỏi về nguồn gốc của con virus gây ra dịch này.
 
Báo cáo náy trách cứ các nước giàu tích trữ thuốc chính ngừa Covid cho chính mình, không chi viện đủ tiền để cứu các nước nghèo và không để ý đến các nhóm thiệt thòi như người di dân, tỵ nạn, và một số nhà lãnh đạo như ở Mỹ và Brazil cố tình giảm thiểu tầm quan trọng của cơn dịch, gây ra nguy hiểm cho dân chúng của họ mà không có cơ sở khoa học.
 
WHO cũng bị chỉ trích là quá thận trọng và chậm chạp nhất là không nhận ra được sớm là virus gây bệnh truyền qua không khí (virus spread through air-borne transmission). Chuyện này một phần lập lại các cáo buộc đối với cơ quan CDC của Mỹ mà chúng ta đã bàn trong một bài trước đây.
 
Bản báo cáo này cũng kêu gọi đặt lại vấn đề nguồn gốc virus gây ra Covid, để tìm hiểu virus này có thoát ra từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán hay không, và cho đến nay điều này được coi như là thuộc thuyết âm mưu (conspiration theory) không đúng sự thật.
 
Báo cáo của Lancet cũng đựoc công bố sau khi Jeffrey Sachs, một nhà kinh tế học Đại học Columbia, chủ tịch hội đồng, công khai chấp nhận "lý thuyết virus rò rỉ từ phòng thí nghiệm" (lab-leak theory), và thậm chí có thể có nguồn gốc nhân tạo, dẫn đến phản ứng dữ dội từ các nhà khoa học đã cảnh báo rằng sự ủng hộ của ông đối với lý thuyết bị tranh chấp sẽ làm ảnh hưởng đến công việc của ủy ban. Sachs tuyên bố rằng các quan chức chính phủ như Anthony S. Fauci “không trung thực” (not being honest) về nguồn gốc của virus. Sachs cũng là đồng tác giả của một bài báo hồi tháng 5 trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, cho rằng các nhà khoa học Hoa Kỳ có thể có vai trò trong việc hình thành SARS-CoV-2 và kêu gọi điều tra nguồn gốc của đại dịch thông qua “cuộc điều tra của quốc hội lưỡng đảng với đầy đủ quyền hạn điều tra. ” Sachs bị nhiều thành viên trong hội đồng phản đối dữ dội.
 
2) COVID Superdodgers: những người né tránh được COVID
 
Một vấn đề khá lý thú khác là một số người hầu như không bao giờ mắc Covid-19 mặc dù họ tiếp xúc (contact)/phơi nhiễm (exposed) nhiều lần với người mắc bệnh. Những người này gọi là “superdodgers” hay “”siêu né bệnh”. (2)
 
Trước đây trong trường hợp bệnh HIV người ta cũng khám phá những người hầu như không thể bị nhiễm HIV. Siêu vi HIV cần sự hiện diện của một thụ thể (receptor) là một protein tên CCR5 (C-C chemokine receptor type 5) thì mới “mở cửa” vào được tế bào của bệnh nhân. Những người mà do một đột biến (mutation) của gen điều khiển sản xuất protein (gen mã hóa protein) này ở vào tình trạng tế bào của họ không có “chìa khóa” cho virus HIV vào và do đó họ khó có thể mắc HIV được.
 
Trong trường hợp Covid-19, thay vì sử dụng CCR5 để "mở cửa tế bào"như virus HIV, siêu vi SARS-CoV-2 sử dụng thụ thể ACE2. Con người không thể sống mà không có ACE2, ví dụ ACE2 cần thiết cho sự điều hòa áp huyết, cho nên không thể loại bỏ thụ thể này để chống Covid. Có thể có những đột biến tinh tế hơn trong ACE2 có thể đóng một vai trò trong việc kháng SARS-CoV-2 nhưng dường như không có sự đột biến ACE 2 rõ ràng và dứt khoát như trường hợp của HIV.
 
Nhưng có những đột biến ở các gen khác ngoài ACE2, và những đột biến này có thể không ngăn chặn được virus chui vào tế bào, không bảo vệ họ khỏi bị nhiễm virus nhưng lại bảo vệ họ khỏi phát bệnh với các triệu chứng và có thể bệnh nặng hay đe dọa tính mạng.
 
Một toán khảo cứu tại UCSF (ĐH California tại San Francisco) đã tìm ra một tình huống như vậy. Kể từ khi đại dịch bắt đầu, Jill Hollenbach và các đồng nghiệp đã nghiên cứu những người xét nghiệm COVID dương tính nhưng hoàn toàn không có triệu chứng.
 
Sau khi phân tích DNA của hơn 1.400 người, họ đã xác định được một đột biến giúp một người loại bỏ virus SARS-CoV-2 nhanh đến mức virus không kịp có cơ hội phát triển các triệu chứng trên cơ thể người bệnh.
 
Đột biến xảy ra trong một gen gọi là HLA, gen này rất quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình lây nhiễm. Hollenbach và cộng sự phát hiện ra rằng có một đột biến cụ thể trong gen đó làm tăng khả năng người bệnh không có triệu chứng lên gần 10 lần (báo cáo online 9/2021).
 
Sau đó, họ tiếp tục giải thích được cách thức hoạt động của đột biến này, liên quan đến việc hệ thống miễn dịch đã được chuẩn bị sẵn cho cho việc chống lại SARS-CoV-2 trước khi đại dịch bùng phát vào năm 2019.
 
Mỗi khi một con virus xâm nhập vào tế bào lần đầu tiên, HLA báo hiệu cho hệ thống miễn dịch rằng các tế bào bị xâm nhập và cần được giúp đỡ. Tín hiệu đó kích hoạt một chuỗi các sự kiện cuối cùng khiến cơ thể tạo ra các “vũ khí” mạnh mẽ được thiết kế đặc biệt để chống lại virus đang tấn công, như các kháng thể (antibodies) và tế bào T (T cells) nhận dạng đặc thù các thành phần của virus này.
 
Khi có sẵn những vũ khí nhắm vào mục tiêu này, hệ thống miễn dịch sẽ có nhiều thời gian hơn nhiều để dễ dàng dọn dẹp sự lây nhiễm. Nhưng những vũ khí này cần nhiều thời gian để được chế tạo. Và sự chậm trễ đó cho phép nhiễm trùng lây lan và các triệu chứng phát triển.
 
Nhưng nếu vì một lý do may mắn nào đó, hệ thống miễn dịch của bạn đã có sẵn vũ khí nhắm mục tiêu đặc biệt đến SARS-CoV-2 lúc nó tấn công?
 
Mùa hè năm nay, Hollenbach và đồng nghiệp đã chứng minh rằng, nhờ một đột biến cụ thể trong HLA, một số người có tế bào T đã được lập trình sẵn để nhận ra và chống lại SARS-CoV-2. Vì vậy, không có sự chậm trễ trong việc tạo ra vũ khí đặc thù chống COVID vì chúng đã có sẵn ở đó rồi, điều này làm cho phản ứng miễn dịch của bạn và các tế bào T này kích hoạt nhanh hơn nhiều so với người không có đột biến HLA.
 
Nhưng trước hết, để gen HLA đột biến này hoạt động bạn phải từng bị nhiễm một loại coronavirus khác. Ngoài coronavirus gây ra Covid, còn có những coronavirus rất thông thường gây cảm lạnh thông thường (common cold).
 
Hầu hết chúng ta đều đã tiếp xúc với một số loại coronavirus cảm lạnh thông thường vào một thời điểm nào đó trong đời. Và tất cả chúng ta đều tạo ra tế bào T để chống lại những cơn cảm lạnh này. Nhưng nếu bệnh nhân có đột biến này trong gen HLA của mình thì những tế bào T này cũng có thể giúp chống lại SARS-CoV-2. Đột biến này khá phổ biến, cứ 10 người thì có thể có 1 người có đột biến này; và ở những người mắc Covid mà không có triệu chứng, con số này tăng lên 1/5.
 
(Trường hợp tương tự như trước khi bị kẻ thù tấn công, quân đội của một nước nào đó đã có sẵn những tin tức tình báo để nhận diện kẻ thù, vì trước đây họ đã đương đầu với một kẻ thù tương tự nhưng ít hung dữ hơn; cũng do đó họ có những võ khí đặc thù nhắm vào loại quân lính xâm lược hung dữ hơn lần này).
 
3) Vaccine chống COVID mùa thu năm nay: Bivalent Covid Booster (3)
 
Vi rút gây ra COVID-19 thay đổi theo thời gian do các đột biến của nó làm cho những biến chủng mới xuất hiện. Chính quyền Mỹ dự trù thuốc chủng ngừa COVID sẽ phải chích lại hàng năm như thuốc ngừa cúm hiện nay. Vắc xin COVID-19 tăng cường được cập nhật (updated Covid booster) cho mùa thu năm 2022 bao gồm các thành phần của chủng vi rút gốc (giống như booster trước đây) và cọng thêm thành phần thứ nhì là biến thể Omicron, cho nên được gọi là Bivalent Covid Vaccine (vắc xin COVID-19 “hóa trị 2” hay “tác dụng 2 chiều”), được thiết kế để cung cấp sự bảo vệ rộng rãi hơn chống lại COVID-19, bao gồm việc bảo vệ tốt hơn chống lại biến thể Omicron vì có chứa những thành phần đặc thù của Omicron là biến thể phổ biến nhất trong giai đoạn này ở Mỹ cũng như ở Việt Nam.
 
Theo FDA: “Thuốc chủng ngừa COVID-19 có thể giúp bảo vệ khỏi bệnh nặng, nhập viện và tử vong do COVID-19. Khi vi rút thay đổi và khả năng miễn dịch của bạn giảm tự nhiên theo thời gian, bạn có thể mất đi một phần khả năng bảo vệ đó.”
 
FDA đã cho phép 2 thuốc Bivalent booster vaccine cùa hai hãng Moderna và Pfizer-BioNTech COVID-19 để sử dụng như một liều tăng cường duy nhất, ít nhất hai tháng sau khi hoàn thành tiêm chủng chính (primary series), hoặc tiêm nhắc lại (booster vaccination).
 
Vắc-xin Moderna COVID-19, được phép sử dụng như một liều tăng cường duy nhất ở những người từ 18 tuổi trở lên.
 
Vắc-xin Pfizer-BioNTech COVID-19, được phép sử dụng như một liều tăng cường duy nhất ở những người từ 12 tuổi trở lên.
 
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
(16/9/2022)
 
Tham khảo:
 
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.