Hôm nay,  

Tại Sao Thiền Chánh Niệm Có Nhiều Lợi Lạc Về Sức Khỏe Tinh Thần

06/03/202000:00:00(Xem: 6109)

THIEN CHANH NIEM 01
Một buổi dạy của José Ramon Yela về Thiền Chánh Niệm.(nguồn: www.medicalxpress.com )

 

Trong vài thập niên qua, thiền chánh niệm đã trở nên ngày càng phổ biến, đặc biệt như là phương thức để giảm căng thẳng hay lo lắng và có được cảm nhận cuộc sống hạnh phúc lớn hơn, theo Ingrid Fadelli, trong bài viết “Exploring why mindfulness meditation has positive mental health outcomes” [Khám phá tại sao thiền chánh niệm có nhiều kết quả sức khỏe tinh thần tích cực] được đăng trên trang mạng Medical Xpress, hôm 17 tháng 2 năm 2020.

Trong khi nhiều nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm khẳng định rằng thiền thông thường, đặc biệt thiền chánh niệm, có thể có nhiều lợi ích lên sức khỏe tâm thần con người, cho đến nay có rất ít người biết về các cơ chế củng cố những hiệu quả này.

Các nhà nghiên cứu tại Đại Học Pontifical University of Salamanca ở Tây Ban Nha gần đây đã thực hiện một nghiên cứu nhằm mục đích khám phá một số lý do tại sao thiền chánh niệm có thể cải thiện sức khỏe tâm lý và cuộc sống hạnh phúc của con người. Tác phẩm của họ, được đăng trong Tạp Chí Clinical Psychology, thừa nhận 3 yếu tố chính có thể liên kết với các lợi ích sức khỏe tâm thần của việc thực tập chánh niệm.

“Nghiên cứu của chúng tôi khởi sinh từ nhu cầu xác nhận tại sao thiền có thể tạo ra các ảnh hưởng tâm lý tích cực,” theo José Ramon Yela, lãnh đạo nhóm nghiên cứu, nói với MedicalXpress. “Sau khi xem xét một vài đóng góp của nghiên cứu trước đây về chủ đề này, chúng tôi đề xuất 3 yếu tố có thể đóng vai trò quan trọng: khả năng tự thương yêu mình; kinh nghiệm đời sống có ý nghĩa – đó là, có những điều giá trị và quan trọng trong cuộc sống và những mục tiêu giá trị để theo đuổi; và cuối cùng, giảm mức độ mà một người tránh những suy nghĩ, cảm xúc hoặc kinh nghiệm có thể gây khó chịu nhưng là một phần của cuộc sống của anh /cô ấy.”

Trong tác phẩm của họ, Yela và các đồng nghiệp của ông xây dựng các nghiên cứu trước đây bằng việc điều tra các cơ chế bên sau thiền chánh niệm, gồm việc điều tra quá khứ của chính họ và nghiên cứu được thực hiện trong vài năm qua bởi nhóm nghiên cứu tại Đại Học New Mexico. Nó cũng tạo cảm hứng từ tác phẩm của nhà tâm lý Kristin Neff và Christopher Germer, tập trung vào chương trình gọi là Mindful Self-Compassion [Tự Thương Yêu Chánh Niệm].

Thêm vào với việc xác nhận 3 yếu tố có thể làm nền tảng cho các ảnh hưởng tích cực của thiền chánh niệm, Yela và các đồng nghiệp của ông giả thuyết về sự hiện hữu của một cơ chế tuần tự cụ thể mở ra mọi lúc. Đặc biệt hơn, họ đề xuất rằng việc thực hành thiền chánh niệm trên nền tảng thông thường có thể gia tăng mức độ của sự tự thương yêu mình, dẫn tới làm cho cuộc sống cảm thấy có ý nghĩa hơn, cuối cùng thúc đẩy con người thực hành thiền trở nên dấn thân nhiều hơn vào cuộc sống, như giảm bớt sự tránh né của họ đối với các kinh nghiệm hài lòng và thách thức.

“Thương yêu chính mình là đặc biệt quan trọng khi con người trải qua giai đoạn khó khăn trong cuộc sống,” theo Yela giải thích. “Trong ý nghĩa này, thật là quan trọng để làm rõ ý nghĩa của sự yêu thương chính mình, gồm 3 thành tố.”

Trong tác phẩm của họ, Yela và các đồng viện của ông định nghĩa thương yêu chính mình như là khả năng tử tế của một người dành cho chính họ hơn là sự khe khắc hay tự chỉ trích, trong khi cũng thừa nhận rằng sự đau khổ, đau đớn và khó khăn là chung cho bản tính con người của chúng ta thay vì cảm thấy xa lạ hay kỳ lạ. Thành tố quan trọng thứ ba đòi hỏi khả năng tỉnh thức một cách chánh niệm về các kinh nghiệm bên trong có khả năng gây khó chịu, như những ý tưởng phiền muộn, các cảm giác tiêu cực hay giận dữ, thay vì nhận định thái quá về những kinh nghiệm này.

Trong tác phẩm của họ, Yela và các đồng viện của ông đã kết hợp vài phương pháp nghiên cứu khác nhau. Trước hết, họ yêu cầu những người tham gia trả lời các thăm dò được đưa ra để trắc lượng 3 yếu tố mà nghiên cứu của họ tập trung vào. Sau đó, họ cố gắng khám phá mối quan hệ giữa những yếu tố này và kết hợp chúng vào một mô hình thử nghiệm bằng kinh nghiệm.



THIEN CHANH NIEM 02
Thực tập Thiền thường xuyên.



“Loại nghiên cứu này rất thú vị bởi vì chúng tôi có thể thu thập các tài liệu từ những mẫu rất lớn và phân tích vai trò mà nhiều yếu tố có thể đóng liên quan đến sức khỏe tinh thần và hạnh phúc tâm lý,” theo Yela cho biết. “Tuy nhiên, có một số hạn chế, như thực tế là rất phức tạp để đưa ra những quy kết nguyên nhân liên quan đến các mối quan hệ trong số các yếu tố. Vì lý do này, chúng tôi cũng đang thực hiện nghiên cứu dài hạn.”

Để trắc nghiệm giả thuyết của họ, các nhà nghiên cứu đã đặt câu hỏi với 414 người thực tập thiền và 414 người không thực hành thiền để trả lời những câu hỏi được đưa ra để đo lường các mức độ của họ về sức khỏe tinh thần, sự thương yêu chính mình và lẩn tránh kinh nghiệm tiêu cực, cũng như họ cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa nhiều như thế nào. Rồi họ phân tích các tài liệu mà họ đã thu thập, so sánh những trả lời của những người hành thiền với các trả lời của những người không thực hành thiền.

“Chúng tôi tập trung vào những người đã nhận các huấn luyện chánh niệm hay chánh niệm và thương yêu chính mình và phân tích các thông số tâm lý khác nhau (thí dụ, sức khỏe tinh thần, lo lắng, trầm cảm, v.v…) và các cơ chế giải thích tiềm năng thay đổi mọi lúc như kết quả của việc huấn luyện như thế,” theo Yela giải thích.

Các phân tích được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu mang lại nhiều kết quả thích thú. Trước hết, Yela và các đồng viện cho thấy rằng sự thương yêu chính mình, sự hiện hữu của ý nghĩa trong cuộc sống và việc lẩn tránh kinh nghiệm đã giảm có thể tất cả đều liên kết với những thành quả lợi ích của thiền chánh niệm.

Cụ thể hơn, những quan sát của họ cho thấy rằng việc thực tập thiền chánh niệm liên tục khuyến khích yêu thương chính mình, giúp con người tìm ra ý nghĩa vĩ đại trong cuộc sống, nhưng cũng giảm khuynh hướng lẩn tránh hay trốn chạy khỏi các tư tưởng buồn phiền hay các cảm giác gây đau đớn, đau khổ hay không hài lòng. Tổng hợp, 3 yếu tố này có thể dẫn tới các cải thiện trong cuộc sống hạnh phúc và sức khỏe tinh thần.

“Nói chung, chúng tôi nêu bật sự liên quan của việc đối xử tốt với chính mình, đối xử với chính mình một cách từ bi, nhận ra những gì có giá trị trong cuộc sống và tiến về phía trước dù cuộc sống không phải lúc nào cũng như nó là,” theo Yela nói như thế. “Một kết quả quan trọng khác của nghiên cứu liên quan đến sự cam kết với việc thực hành thiền.”

Cộng thêm với việc soi sáng một số lý do tại sao thiền chánh niệm có thể rất hữu ích, các phát hiện được thu thập bởi nhóm các nhà nghiên cứu này nêu bật các lợi lạc của việc hành thiền đều đặn. Yela và các đồng nghiệp của ông cho thấy rằng đối với thiền để được liên kết với các hiệu quả tích cực thì phải thực tập đều đặn thường xuyên, là phù hợp với các kết quả thực nghiệm trước đó. Khi thiền chỉ được thực hành trên cơ bản không thường xuyên, thì ngược lại, ảnh hưởng của nó có thể quá nhỏ hoặc thực tế thậm chí có thể trở thành một hình thức lẩn tránh kinh nghiệm trong chính nó.

Hiện nay các nhà nghiên cứu đang thực hiện thêm nghiên cứu nhắm vào việc công khai các cơ chế khác mà có thể làm trung cho mối quan hệ giữa chánh niệm và sống hạnh phúc về tâm lý. Hơn nữa, họ đang đánh giá hiệu quả của một số phương pháp trị liệu và thể thức được đặt ra để khuyến khích chánh niệm và sự thương yêu chính mình, gồm các chương trình Mindfulness Self-Compassion (MSC) và Mindfulness Based Stress Reduction (MBSR).

“Chúng tôi cũng đang có kế hoạch nghiên cứu về các hiệu quả của sự thực hành thương yêu chính mình trên một số thông số tâm lý, sức khỏe và sinh học,” theo Yela cho biết. “Trong dự án này, chúng tôi sẽ theo dõi trong 3 năm những người bắt đầu thực tập thương yêu chính mình và so sánh họ với những người đã thực hành thiền lâu năm.”

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.