Hôm nay,  

Sữa Bò và Sức Khỏe

14/09/201800:00:00(Xem: 5531)
BS_NGUYEN_Y_DUC nguyen y du
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

 
Ngoài giá trị dinh dưỡng, sữa bò còn có một số ích lợi về y học cũng như có thể gây ra một vài trở ngại cho người dùng sữa. Vì thế, khi dùng thì cũng cần phải có những hiểu biết nhất định.

 
Lợi ích về Y Học
 
Nhiều nghiên cứu y khoa học cho thấy sữa có một số ích lợi đối với sức khỏe.

  1. Ngăn ngừa bệnh loãng xương, còn gọi là bệnh xương xốp. Loãng xương thường xẩy ra ở người cao tuổi nhất là nữ giới vào thời kỳ mãn kinh, kích thích tố nữ estrogen giảm thiểu. Loãng xương dễ đưa đến gẫy xương, đặc biệt là xương đùi.

    Loãng xương có thể tránh được nếu ta dùng đủ số lượng calcium cần thiết, tức là khoảng 1200mg mỗi ngày. Ba ly sữa không chất béo cung cấp đủ số calcium này.

  2. Vì được tăng cường thêm sinh tố D nên sữa có thể ngăn ngừa bệnh còi xương trẻ em.

  3. Một nghiên cứu tại bệnh viện St. Luke, Nữu Ước cho hay, uống thêm 1200mg calcium mỗi ngày có thể làm giảm các triệu chứng khó chịu của Hội chứng tiền kinh nguyệt. Sữa bò có nhiều calci nên có thể được dùng làm nguồn cung cấp calci dễ dàng.

  4. Năm 1985, Bác sĩ Cedric Garland thuộc trường Đại Học California-San Diego, công bố kết quả quan sát hơn hai ngàn người đàn ông trong 20 năm. Ông ta thấy rằng những người mỗi ngày uống hai, ba ly sữa thì có ruột già tốt lành hơn và cũng ít bị ung thư hơn người không uống sữa. Một nghiên cứu khác ở Úc vào năm 1987 cũng xác định nhận xét này.

    Tạp san của Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ (JAMA) số ra ngày 23-9-1998 có đăng kết quả một cuộc nghiên cứu, theo đó sữa và các phó sản như pho mát, kem... đang trở thành những công cụ hữu hiệu trong việc ngăn ngừa ung thư ruột.

    Nhiều khoa học gia cho rằng đó là nhờ sữa có nhiều calcium. Trong ruột khoáng chất này vô hiệu hóa acid mật (bile acid), một chất được coi như có nguy cơ gây ra ung thư ruột già.

  5. Theo bác sĩ George Mann thì sữa đã bỏ bớt chất béo có thể làm hạ mức độ cholesterol trong máu. Một nghiên cứu bên Nhật Bản cũng tìm thấy cùng kết quả là ở loài chuột, sữa ít béo làm bớt những bựa cholesterol bám trong động mạch.

  6. Nhờ nhiều calci nên sữa có thể làm hạ huyết áp. Kết quả nghiên cứu của Viện Tim, Phổi và Huyết Học Quốc Gia tại Hoa Kỳ cho hay người không uống sữa bị cao huyết áp nhiều gấp đôi người uống sữa mỗi ngày.

  7. Những người nghiện  thuốc lá nếu uống nhiều sữa sẽ ít bị viêm cuống phổi kinh niên hơn  so với người hút thuốc mà không uống sữa. Đó là kết quả nghiên cứu của các khoa học gia tại Đại học danh tiếng John Hopkins bên Hoa Kỳ.

  8. Đã từ lâu, các cụ ta vẫn biết là sữa có công dụng làm giảm các dấu hiệu khó chịu khi bị loét bao tử. Cách đây vài chục năm, một nghiên cứu tại Đại học Harvard cũng thấy là nhóm sinh viên uống nhiều sữa ít bị viêm bao tử hơn nhóm không uống sữa. Đó là nhờ chất prostaglandin có trong sữa.

    Nhưng nên chú ý rằng nếu đã bị viêm bao tử thì sữa lại làm bệnh trầm trọng hơn vì sữa kích thích dạ dầy tiết ra nhiều acid.

  9. Kết quả nghiên cứu của bác sĩ Robert Yolken, Đại học Y khoa Johns Hopkins, Baltimore cho hay sữa bò chứa một loại kháng thể có khả năng bảo vệ trẻ em khỏi bị chứng tiêu chẩy gây ra do  Rotavirus.

  10. Nhiều người tin là muốn dễ dàng đi vào giấc ngủ thì uống một ly sữa nóng trước khi lên giường, vì hóa chất tryptophan trong sữa làm dịu các sinh hoạt não. Nhưng một số nghiên cứu khác lại cho rằng sữa, nhất là sữa ít béo, làm ta tỉnh táo, khó ngủ hơn.

  11. Ngoài ra sữa còn được cho là có khả năng ngăn ngừa ung thư, làm bớt sâu răng, chống nhiễm vi khuẩn...

 
Dị ứng-Bất dung Sữa

Dị ứng và bất dung với một thực phẩm là hai hiện tượng hoàn toàn khác biệt.

Không dung nạp sữa là không dùng được sữa vì không tiêu hóa được đường lactose trong sữa. Những người này không có diếu  tố lactase trong cơ thể,  đặc biệt thường thấy ở người châu  Á và châu Phi. Diếu  tố này chuyển hóa lactose thành glucose và galactose, là các dạng dễ tiêu hóa hơn. Người không dung nạp mà vẫn uống sữa thì thấy đầy bụng, đi tiêu chẩy, lâm râm đau bụng.

 Dị ứng với sữa là những trường hợp mà cơ thể phản ứng, đôi khi rất mạnh, với chất đạm trong sữa. Dị ứng sữa khá hiếm và cần được sự xác định cũng như hướng dẫn giải quyết bởi các giới chức y khoa chuyên môn.

Theo nhiều nghiên cứu, một người dù có bất dung với sữa có lactose vẫn có thể uống được một vài ly sữa mỗi ngày nếu biết áp dụng một vài biện pháp như sau:

  • Uống sữa từng ít một, chia làm nhiều lần trong ngày cùng với bữa ăn chính hoặc thời gian giữa các bữa ăn.

  • Có thể dùng pho-mát hay sữa chua thay cho sữa hoặc chọn loại sữa đã được giảm bớt lactose.

  • Dùng kèm với men lactase dạng tổng hợp (Lactaid) hiện có  bán trên thị trường. Có thể uống một viên hay mươi giọt Lactaid trước khi uống sữa.

 
Calci trong sữa

Calci có trong rất nhiều loại thực phẩm, nhưng theo nhiều nhà dinh dưỡng thì sữa vẫn là nguồn cung cấp calci nhiều và tốt hơn cả.

Theo mức tiêu thụ hiện nay, sữa cung cấp tới 73% tổng số calcium trong tất cả các loại thực phẩm,  và calcium trong sữa được cơ thể hấp thụ dễ hơn. Không thực phẩm nào cung cấp được lượng calcium tương dương như sữa.

Chẳng hạn như muốn có lượng calcium tương đương với một ly sữa , ta phải ăn bốn ly súp lơ trắng, bốn ly đậu, ba ly cải xoăn, hoặc một ly hạt hạnh nhân.

Ngoài ra sữa còn có nhiều chất đạm, riboflavin, sinh tố A và D có thể giúp sự hấp thụ calci dễ dàng hơn.

Nhiều người cũng e ngại là nếu dùng nhiều calci quá thì có hại.

Theo các nhà dinh dưỡng, mỗi ngày ta cần 1200 mg calci, với lượng tối đa có thể chấp nhận được là 2500mg và nếu chỉ dùng quá nhiều trong một vài ngày thì không sao. Nếu dùng nhiều hơn nữa và kéo dài  liên tục thì sẽ có ảnh hưởng không tốt cho thận, mắt, và gây các triệu chứng như ăn mất ngon, mệt mỏi, ói mửa, suy nhược...

 
Sữa mẹ

Hiện nay, không ai phủ nhận việc nuôi con bằng sữa mẹ có nhiều lợi điểm hơn sữa bò. Xin tìm hiểu thêm về vấn đề  này.

Các nhà y học đều đồng ý là trẻ bú mẹ được  cung cấp những chất dinh dưỡng hoàn hảo và đầy đủ nhất. Ngoài ra còn có các lợi điểm sau:

  1. Sữa mẹ hội đủ những nhu cầu dinh dưỡng của hài nhi trong mấy tháng đầu sau khi sanh.

  2. Sữa mẹ không tốn tiền mua, sẵn sàng khi cần mà không phải pha chế.

  3. Sữa được chứa trong vú, rất  an toàn, không sợ nhiễm chất có hại, lại ở nhiệt độ thích hợp, không phải hâm nóng.

  4. Có sẵn một số kháng thể giúp con tăng cường hệ thống miễn nhiễm.

  5. Sữa mẹ có nhiều đường lactose giúp trẻ hấp thụ calci và sắt dễ dàng hơn cũng như ngăn chặn sự tăng trưởng của vi sinh vật trong ruột.

  6. Chất đạm trong sữa mẹ chỉ bằng 1/3 trong sữa bò, nhưng dễ tiêu hơn và có nhiều chất làm tăng cường hệ miễn nhiễm của trẻ.

  7. Chất béo trong sữa mẹ nhiều hơn sữa bò một chút nhưng hầu hết thuộc nhóm bất bão hòa, ít có tác dụng xấu.

  8. Sữa mẹ có đủ các sinh tố hòa tan trong nước và trong chất béo, ngoại trừ sinh tố D, cho nên trẻ em bú sữa mẹ cần dùng thêm sinh tố này.

  9. Những giọt sữa non (colostrum) trong mấy ngày đầu sau khi sinh có nhiều chất đạm, ít lactose và chất béo, có nhiều kháng thể. Sữa non có tác dụng nhuận tràng rất tốt và giúp kích thích chức năng bài tiết của ruột.

  10. Sữa mẹ còn bảo vệ trẻ chống lại  các bệnh nhiễm trùng màng não, ruột, hô hấp...

  11. Khi lớn, trẻ em nuôi bằng sữa mẹ cũng ít bị một số bệnh như dị ứng, béo phì, tiểu đường, suyễn, vài bệnh tim, phổi cũng như vài loại ung thư.

  12. Nuôi con bằng sữa mình, bà mẹ cũng có nhiều lợi ích. Quan trọng nhất là đã tạo ra tình cảm gắn bó, ràng buộc thân yêu mẹ và con.

 Ngoài ra, khi con ngậm hút núm vú, dạ con của mẹ được kích thích mau co trở lại kích thước bình thường do đó bớt băng huyết. Người  mẹ cũng bớt mập vì mỡ béo tích tụ trong khi mang thai được sử dụng chuyển sang sãu.

Đây cũng là cách ngừa thai tự nhiên vì khi cho con bú sữa thì sự rụng trứng của người mẹ cũng như thời gian trở lại vòng kinh sẽ chậm lạikhoang 10 tuần lễ, có khi đến 1 năm

Người mẹ cũng giảm thấp được nguy cơ ung thư vú và loãng xương khi vào tuổi mãn kinh.

 
Rủi ro của Sữa

Mặc dù có nhiều lợi điểm, nhưng sữa cũng  thể mang lại một số rủi ro cho người dùng, nhất là khi lạm dụng sữa quá mức bình thường..

  1. Là thực phẩm từ động vật, sữa nguyên trạng là nguồn chất béo bão hòa và cholesterol đáng kể mà hai chất này khi tiêu thụ nhiều lại là những nguy cơ gây ra bệnh tim mạch. Cho nên cần giới hạn cholesterol không quá 300mg và số calori do chất béo không quá 30% tổng số nhu cầu calori trong ngày. Nếu dùng, nên chọn các loại sãu ít béo hoặc không béo.

  2. Sữa là một trong 12 loại thực phẩm dễ gây ra dị ứng, với các triệu chứng như nổi ban ngứa trên da, sưng môi và mi mắt, khó chịu trong hệ tiêu hóa.

  3. Hiện tượng bất dung sữa có đường lactose, như đã trình bày.

  4. Sữa tươi chưa nấu có thể nhiễm vi khuẩn Salmonella, Listeria, gây ra các triệu chứng như là ói mửa, tiêu chẩy...

  5. Calci trong sữa có thể làm giảm công hiệu của vài loại thuốc kháng sinh như Terramycin, Minocin, Vibramycin khi dùng chung với nhau.

 
Kết luận

Sữa là nguồn dinh dưỡng dồi dào và thích hợp với mọi lứa tuổi, là thực phẩm rất tốt cho sức khỏe con người. Chỉ cần hiểu biết đầy đủ và không lạm dụng thái quá, sữa không mang lại những rủi ro nghiêm trọng về sức khỏe như một số thực phẩm khác, chẳng hạn như thịt, chất béo...

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
Cách đâu 30-40 năm, lúc người tỵ nạn Việt mới định cư ở Mỹ và bắt đầu làm quen với các tập tục kể những tập quán về y tế ở Mỹ, trong y giới Mỹ cũng như các nước tây phương khác đang tranh cãi rất nhiều về chỉ định có nên cắt bao quy đầu theo thông lệ (routine circumcision) cho trẻ em sơ sinh hay không. Thuật ngữ “circumcision”, gốc latinh “circumcisio”. Từ "cắt bao quy đầu" xuất phát từ các từ Latin circum và caedo (circum: “xung quanh”; caedo: “tôi cắt”), có nghĩa đen là "cắt xung quanh". Từ epitome trong tiếng Hy Lạp cũng có nguồn gốc từ gốc có nghĩa là "cắt" hoặc "vết mổ". Trong tiếng Hebrew (Do Thái), phép cắt bao quy đầu được gọi là “peritomy”, xuất phát từ tiếng Hy Lạp peritomy.
Người ta vẫn thường nói “You are what you eat” (Những gì bạn ăn thể hiện bạn là ai). Nhưng có lẽ sẽ đúng hơn khi nói rằng những gì chúng ta ăn sẽ khiến chúng ta có những cảm xúc gì, bởi vì những tiến bộ trong lĩnh vực dinh dưỡng tâm thần học cho thấy chế độ dinh dưỡng đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của chúng ta.
Đặng Đình Bách: Tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết cộng đồng và câu chuyện đau buồn về sự bất công cần phải khắc phục tại Việt Nam...
Việc thuốc trị béo phì Zepbound mới được thông qua đã bổ sung thêm lựa chọn cho các loại thuốc giúp giảm cân, nhưng nó cũng đi kèm với những thách thức về chi phí và khả năng tiếp cận, giống như các loại thuốc giảm cân khác trong cùng nhóm. Các loại thuốc trong nhóm này gồm chất chủ vận (agonists), hay chất bắt chước các hormone tự nhiên trong ruột có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể và tín hiệu đói phát ra từ não. Nhưng các loại thuốc đã được chuẩn thuận, các phiên bản tổng hợp của các hormone này, là những phân tử có kích thước lớn nên quá trình sản xuất khá tốn kém và mất thời gian. Điều này khiến cho thuốc có giá cả đắt đỏ và ngày càng khan hiếm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.