Hôm nay,  

Người Mỹ Gốc Việt: Bộ Mặt Tích Cực Nhất Từ Cuộc Chiến

07/05/200500:00:00(Xem: 6215)
Bài Tham Luận của Hội Bảo Tồn Di Sản Văn Hoá Của Người Mỹ Gốc Việt Do Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Trình Bày tại Cuộc Hội thảo về Chiến Tranh Việt Nam lần thứ 5 -- Do Trường Đại Học Kỹ Thuật Texas-Lubbock tổ chức Ngày 17-20 tháng 3 năm 2005.
Năm 1972 đã có những cuộc thảo luận gay go giữa các phía liên hệ trong cuộc chiến Việt nam về hình thức cái bàn sẽ được dùng trong Hoà đàm Ba Lê, một hội nghị đã được triệu tập với cố gắng chấm dứt một cuộc chiến quá dài và hao tốn cho tất cả mọi phía. Các đề nghị đi từ bàn 2 bên, rồi 4 bên, để rồi kết thúc với cái bàn hình bầu dục. Lý do của vấn đề là tất cả các phe tham dự đều muốn được nhìn nhận rằng mình là một trong những thành viên chính và quyền lợi của mình phải được bàn tới trong cuộc thương thuyết. Vấn đề nữa được đặt ra ở đây là: ai thực sự tham chiến với ai" Phải chăng đây là cuộc chiến tranh giữa Mỹ với Bắc Việt" Hay là cuộc chiến của Cộng Hoà miền Nam với Bắc Việt với sự giúp đỡ của người Mỹ" Thêm vào đó, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt nam đóng vai trò gì trong cuộc chiến này". Tổ chức này có phải là con múa rối của Bắc Việt không" Hay là một lực lượng độc lập" Lúc bấy giờ, những cố gắng để thỏa mãn các yêu sách về cái bàn xem như buồn cưòi và vô bổ, nhưng nó nói lên sự khó khăn để dung hoà mọi phìa trong cuộc chiến. Cuối cùng, Hiệp ước Paris đã đem lại cho người Mỹ một lối thoát cho cuộc phiêu lưu quân sự tại VN, hiệp ước này cũng đã quyết định số phận của đồng minh Nam Việt nam, và bảo đảm cho sự chiến thắng vô nghĩa của miền Bắc Việt nam. Nhìn lại quá khứ với một nhận định bình tĩnh và chín chắn hơn, Hiệp định Ba Lê đánh dấu việc chấm dứt một giai đoạn đau thương và quá nhiều tổn thất cho tất cả mọi phiá trong một cuộc chiến như một cơn ác mộng . Bỏ qua một bên những hậu quả tiêu cực, bài tham luận nầy nhắm mục đích nói lên phần tích cực của cuộc chiến Việt Nam. Phần tích cực này đã đem lại niềm hy vọng và tin tưởng vào sự tự do và lòng nhân đạo. Kết quả tích cực đó chính là sự hiện diện và lớn mạnh của Cộng Đồng Tị Nạn Việt Nam và sự hội nhập của họ vào các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là nhóm người Mỹ Gốc Việt .
Không có kẻ chiến thắng trong cuộc chiến Việt nam
Dù theo bất kỳ phe nào, theo thiển ý của chúng tôi, thì cũng không có kẻ chiến thắng trong cuộc chiến Việt nam:
Nước Mỹ mất hơn 50,000 mạng người, hàng nhiều tỷ mỹ kim, mất đi uy tín từng là một đồng minh đáng tin cậy, và sự đoàn kết của xã hội Hoa kỳ trong nhiều thập niên Tổ chức gọi là Mặt Trận Giải phóng Miền Nam, do Bắc Việt lập nên, tuyên bố là kẻ thắng, đã bị thiệt hại hàng trăm ngàn người. Mặt Trận này đã bị buộc phải giải tán hoàn toàn một năm sau khi chiến tranh chấm dứt. Một số ít các lãnh tụ của Mặt Trận còn được có mặt trong chính quyền CS hiện nay nhưng với những chức vụ không quan trọng, số còn lại, thì biến mất khỏi chính trường. Bắc Việt, tuyên bố mình cũng là kẻ thắng trận, bị mất hơn một triệu người. Sự chiến thắng vô nghĩa này chỉ đem lại quyền hành và lợi lộc cho một thiểu số trong nội bộ đảng Cộng sản. Các lãnh tụ của họ trở nên giàu có và đầy quyền lực, nhưng đa số 80 triệu dân Việt nam thì sống trong đói nghèo và tương lai vô vọng . Lợi tức trung bình đầu người ở Việt nam là 220 mỹ kim một năm và sự chênh lệch về lợi tức đã lớn còn đang lớn thêm hơn nữa. Thêm vào đó, việc hệ thống cộng sản quốc tế sụp đổ ở Nga và các nuớc Đông Âu, sự thất bại của nền kinh tế ở Việt nam khiến cho Cộng sản Việt nam phải ngã quỵ . Theo một bản báo cáo của LHQ, từ năm 1983 tới năm 1985, Việt nam có một nạn đói, không được báo cáo, làm cho hàng ngàn người chết, nhứt là dân chúng vùng thôn quê. Điều đó xảy ra vì chính phủ VN ban hành một số chính sách sai lầm khiến cho cả nước phải bước tới ngưởng cữa của nạn đói. Một trong những chính sách đáng được chú ý nhứt là việc hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Nam. Chính sách đó đã đem đến một thất bại não nế mà kết quả là sự thu hoạch về lúa mùa đã sút giảm một cách thảm hại.
Trong những năm gần đây, đảng Cộng sản Việt nam cho áp dụng một chương trình gọi là “Đổi Mới”. Chương trình nầy đã bắt đầu ở Nga với hy vọng cải thiện nền kinh tế Việt nam và tăng cường sự bang giao với thế giới tự do. Kết quả là mức sống của dân chúng có tăng lên đôi chút . Tuy nhiên, sự sợ hãi mất quyền lực của chủ nghĩa Công sản đã chiến thắng sự cần thiết của một sự thay đổi từ gốc rễ. Một sự thay đổi cấp thiết để giúp Việt nam cất cánh và tiến tới một quốc gia tân tiến và giàu có. Vì lý do đó mà Việt nam hiện tại vẫn là một trong 4 quốc gia cộng sản còn lại và cũng là một trong những nước nghèo nhứt trên thế giới.
Trong cuộc chiến tranh vừa qua, Cộng Hoà Nam Việt nam cũng bị mất trên 200.000 nam nữ quân nhân, mất hoàn toàn bộ máy chính quyền, mất tự do, mất nền kinh tế, giáo dục, tài chánh, hệ thống truyền thông, văn hoá và cả tự do tôn giáo. Các yếu tố quan trọng đó trong đời sống của họ đã bị tước đoạt hoặc biến thành bất hợp pháp. Hàng ngàn quân nhân miền Nam, nhân viên chính phủ, các phần tử đối lập với cộng sản và nhiều công dân vô tội bị giam giữ hàng chục năm. Nhiều người trong số đó đã chết trong tù vì bị thiếu ăn, bị tra tấn , hay vì bị thiếu thuốc men.
Bộ mặt tích cực nhất của cuộc chiến Việt nam
Sau cuộc chiến, theo ý chúng tôi , chỉ có một nhóm người Việt trở thành yếu tố tích cực: đó là những Người Mỹ Gốc Việt (và các cộng đồng người Việt khác trong thế giới tự do).
Sau khi Saigon thất thủ vào tháng 4 năm 1975, Hoa kỳ đã đưa bàn tay nhân ái, đón nhận hàng ngàn người tị nạn Việt nam như những công dân của quốc gia vĩ đại nầy. Từ năm 1975, con số người tị nạn Việt nam đã tăng lên một cách nhanh chóng, tăng tới 150% trong hai thập niên 80 và 90. Theo cuộc Kiểm Tra Dân Số năm 2000 thì số người Việt sinh sống ở Hoa kỳ lên tới 1,122,528 người, sau người Trung Hoa (2,400,000) Phi (1,800,000) và Ấn độ (1,600, 000) và trên người Đại Hàn (1,000.000). Một cuộc tìm hiểu mới đây của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho thấy một con số cao hơn nhiều (2,200,000). Với con số nầy, người Mỹ gốc Việt đứng vào hàng thứ tư trong số các sắc dân thiểu số tại Hoa kỳ. Hơn nửa dân số này sống tập trung tại các tiểu bang California, Texas, Louisana và Maryland.
Lòng can đảm: “Tự do hay là chết”
Ban đầu, người Mỹ gốc Việt bỏ quê cha đất tổ ra đi sau khi quân đội cộng sản Bắc Việt xâm chiếm hết miền Nam năm 1975. Các phương tiện di tản của họ gồm những chiếc ghe chài nhỏ vượt biển hay đi bộ qua những chiến trường đẳm máu ở Cao Mên và Lào vào những năm 1978 tới 1995. Sau đó, một số người khác đến Hoa Kỳ tỵ nạn qua các chương trình của chính phủ Hoa kỳ lập nên, sau khi họ thấy được những thảm cảnh của hàng ngàn người chết trên biển cả hay trong rừng sâu ở Cao Mên, Lào và Thái Lan.
Những người Việt cương quyết đi tìm tự do và để tránh sự đán áp chính trị bằng nhiều đợt.
Trước năm 1975, chỉ có mấy ngàn người Việt nam sinh sống ở Hoa kỳ. Phần lớn những người đó là vợ của nhân viên người Mỹ hay quân nhân Mỹ phục vụ ở Việt nam, sinh viên Việt Nam du học hay nhân viên của ngoại giao đoàn.
Ngay trước khi miền Nam sụp đổ, một số người nhờ có sự liên hệ với chính phủ Mỹ dã được phép ra đi. Trong số đó có những quân nhân miền Nam có liên hệ với toà Ðại Sứ Hoa kỳ hay với Tổng hành dinh Quân đội Mỹ ở Saigon. Tổng số người nầy ước luợng độ 150.000, ra đi bằng máy bay.
Sau đó, một đợt người khác khoảng 150,000 đã thoát đi bằng thuyền và đã được các lực lượng đồng minh cứu thoát ngoài lãnh hải Việt nam trong khoảng thời gian từ năm 1975 tới năm 1978.
Từ năm 1978 tới 1982, một phong trào đàn áp của chính quyền Cộng sản đối với người Việt gốc Hoa, đã gây ra một đợt người tị nạn khác. Đợt nầy gồm có người Việt và ngưòi Việt gốc Hoa. Họ đã ra đi bằng thuyền bè đủ cở. Họ được gọi là “thuyền nhân”. Họ sẵn sàng đem mạng sống của mình để đổi lấy tự do. Khẩu hiệu của họ là “Tự do hay là chết”. Họ trốn đi với niềm hy vọng tới được bến bờ các quốc gia lân cận, như Phi Luật Tân, Mã Lai, Hong Kong, Thái Lan hay Tân Gia Ba để sinh tồn, nhưng một số đông đã phải hy sinh. Nhiều người không sống được cho tới khi thấy được bến bờ tự do. Nhiều gia đình đã bị bão táp cuốn trôi, làm mồi cho cá mập hoặc bị hải tặc hảm hiếp và giết chết. Theo các con số ước tính của Cao Ủy Tị Nạn thì con số người chạy trốn bị chết như thế lên tới 700.000 người.
Một khi tới được đất liền, những người sống sót được đưa tới các trại tị nạn để sống những ngày đầy thiếu thốn và lo âu để chờ được chấp nhận tới định cư ở đệ tam quốc gia. Số người nầy lên tới khoảng 500.000 người
Lòng quảng đại và Tình thương mệt mõi
Cuộc di tản kinh hoàng chưa từng có này đã trở thành một mối lo cho quốc tế. Nhiều quốc gia ở Á châu, giúp đỡ người tị nạn trong khi họ chờ đợi được định cư tại một quốc gia chấp nhận họ, đã bày tỏ sự mệt mỏi trong việc giải quyết cho một số lớn người tị nạn Việt nam. Chánh phủ Hoa Kỳ, Tổ Chức Liên Hiệp Quốc và nhiều quốc gia khác đã có những cuộc thảo luận đa phương để đưa ra những chương trình nhân đạo như chương trình “Ra đi trong trật tự”(Orderly Departure), “Luật đưa các trẻ Mỹ Lai về Mỹ”(Home Coming Act), chương trình định cư trẻ em không có cha mẹ (Program for Unaccompagned Children), và Chương trình nhân đạo cho các cựu tù nhân chính trị (HO). Từ đó, người tị nạn có cơ hội định cư ở Hoa kỳ theo diện đoàn tụ gia đình hay tị nạn chính trị.
Nhóm sau cùng kể trên gồm có trên 300,000 người được gọi là HO (Humanitarian Operation). Năm 1988, TT Ronald Reagan đích thân ký sắc lịnh cho phép mọi cựu tù nhân chính trị bị cộng sản bắt giam hay tập trung cải tạo từ 3 năm trở lên ở Việt Nam sẽ đủ điều kiện xin định cư vào Mỹ. Nhóm nầy gồm có quân nhân và công chức Việt nam ở mọi cấp bực, bị tù đầy sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng sản. Tùy theo cấp bực và chức vụ cũ, họ bị bắt cầm tù từ vài ba tháng tới 15 năm. Họ bị cầm tù trong các trại giam rải rác trong toàn lãnh thổ VN. Họ bị kiểm soát chặt chẽ và thường khi bị tra tấn. Sau mỗi ngày làm lao động cực nhọc, họ còn phải thức đêm để học những bài học “cải tạo” về chủ nghĩa Mác-Lê để gọi là gột rữa những“cặn bã đế quốc”. Theo ước lương từ nhiều cuộc nghiên cứu đứng đắn thì có khoảng 65,000 người bị hạ sát vì lý do chính trị giữa những năm 1975 và 1993.

Những góp đóng của Người Mỹ gốc Việt
Sự đóng góp của ngưòi Mỹ gốc Việt vào nước Mỹ không phải chỉ gồm có số dân . Giống như những người nhập cư từ trước, người Mỹ gốc Việt không những đã vượt qua được những kinh nghiệm đau thương của kẻ mới lập nghiệp, họ còn vận dụng được nền văn hoá phong phú và sự siêng năng làm việc của họ để thực hiện giấc mơ như mọi người Mỹ khác. Trong thập niên đầu tiên, biết bao nhiêu câu chuyện gây cho nhiều người bản xứ phải chú tâm về những khó khăn mà người Việt tị nạn phải trải qua để vượt qua các khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá. Hôm nay, mặc dù cuộc tranh đấu của người Mỹ gốc Việt để hội nhập vào xã hội Hoa kỳ vẫn tiếp tục, câu chuyện về những kinh nghiệm của người Mỹ gốc Việt đang tràn đầy với những thành công .
Xin nêu ra một số ít ví dụ:
- Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, người phát minh bom tầm nhiệt, giúp cho quân đội Hoa kỳ chiến thắng ở Afghanistan
- Cầu thủ Nguyễn Đạt thủ vai linebacker cho đội banh Dallas Cowboys
-Khoa học gia Nguyễn Việt góp phần vào việc nghiên cứu tăng gia năng lượng cho phi thuyền con thoi Columbia
- Luật sư Đinh Việt, giữ chức vụ phụ tá bộ trưởng Tư pháp Hoa kỳ trong nội các đầu tiên của Tổng Thống George W. Bush
- Cô Mina Nguyễn được bổ nhiệm làm Giám Đốc Giao Tế của Bộ Lao Động
- Giáo sư Trương Hồng Sơn, một trong những nhà khoa học hàng đầu trong cơ quan NASA.
Người ta có thể tiếp tục kể thêm, thêm nhiều hơn nữa về những thành tựu của người Mỹ gốc Việt.
Đối với ngưòi Mỹ gốc Việt, làm việc chăm chỉ và thành công là một phương cách để tỏ lòng biết ơn nhân dân Mỹ đã bảo bọc họ như những thành viên thực sự trong gia đình người Mỹ. Người Mỹ gốc Việt đã có những cố gắng để đóng góp về mọi phưong diện vào xã hội Mỹ. Từ kinh tế cho tới giáo dục, từ văn hóa cho tới nghệ thuật, thể thao, người Mỹ gốc Việt đã ghi dấu chân của mình và đã gây được những ảnh hưởng tích cực trong mảnh đất Hoa kỳ. Người Mỹ gốc Việt cũng đang góp tích cực trong trận chiến ở Iraq. Và, còn nhiều người Mỹ gốc Việt trong lực lượng quân sự Hoa kỳ đang bảo vệ tự do tại các tuyến đầu ở Iraq, Afghanistan và tại nhiều nơi khác trên thế giới. Họ cùng hưởng sự vinh quang, phồn thịnh và cùng chia xẻ các gánh nặng và trách nhiệm của Hoa kỳ trên thế giới.
Sự thành công của người Mỹ gốc Việt cũng còn đem lại lợi ích cho Việt nam. Người Mỹ gốc Việt mỗi năm đã góp phần từ 5 tới 8 tỷ mỹ kim cho nền kinh tế Việt nam. Trong khi sống một một đời sống thoải mái,, tự do ở Hoa kỳ, người Mỹ gốc Việt vẫn nặng lòng với những người thân còn kẹt lại tai VN, họ đã gởi về VN qua đường chính thức cho những người thân hơn 3 tỷ mỹ kim mỗi năm qua các cơ sở tài chánh và ngân hàng. Việc đầu tư của người Mỹ gốc Việt còn ít – khoảng 200 triệu mỗi năm – so với khả năng của họ tới 22 tỷ mỹ kim một năm. Lý do của sự chênh lệch đó là các điều kiện nhân quyền ở Việt nam. Phần lớn các nhân quyền căn bản như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội, v.v... vẫn bị từ chối đối với đại đa số người Việt nam. Thêm vào đó, sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các công ty chính phủ và công ty tư nhân làm cho việc đầu tư của tư nhân gần như không thể nào thành công được. Trên tất cả những lý do vừa kể trên, các chính sách bất nhất và thiếu chân thành của chính phủ Việt nam dành cho người Mỹ gốc Việt là những trở ngại lớn nhất cho việc người Mỹ gốc Việt không mấy thích thú đầu tư tại Việt nam.
Trong quá khứ, chính phủ Cộng sản Việt nam đã gọi người Mỹ gốc Việt với những hỗn danh như: “ kẻ phản bội ” hay “kẻ tội đồ”. Ngày nay, với sự thành công về kinh tế của họ, người Mỹ gốc Việt đối với chính quyền CSVN, đã trở thành “người yêu nước” hay “nắm ruột ở phương xa”. Dù có được mệnh danh là gì chăng nữa, thì lợi tức hàng năm của 2 triệu người Mỹ gốc Việt cũng tương đương với lợi tức quốc gia hàng năm của Việt nam với dân số 80 triệu người. Nói đến sự kiện đáng buồn này không phải để đề cao thành quả của người Mỹ gốc Việt, mà chỉ muốn chứng tỏ sự khác biệt giữa một xã hội tư do và một xã hội bị áp bức và các ảnh hưởng của nó đối với đời sống và và khả năng thăng tiến của công dân trong các xã hội đó. Các thế hệ trẻ người Mỹ gốc Việt còn có học vấn cao và có nhiều kinh nghiệm trong nhiều địa hạt và kỹ nghệ quan trong Những kiến thức và tài năng đó nếu đưa về được Việt nam, sẽ không chỉ giúp Việt nam hội nhập nền kinh tế thế giới mà còn hy vọng đẩy Việt nam tiến tới một đất nước tự do và trù phú.

Bảo tồn lịch sử
Năm nay, trong khi mừng kỷ niệm 30 năm tự do của 2 triệu người Mỹ gốc Việt cũng như các người Việt tỵ nạn khác, chúng ta cũng nhìn lại 30 năm lịch sử để tạ ơn các cố gắng, những hy sinh và các thành quả của thế hệ thứ nhứt của ngưòi Mỹ gốc Việt. Chúng ta phải hãnh diện mà nói rằng lịch sử của người Mỹ gốc Việt là lịch sử của lòng can đảm, sự kiên tâm và đầy những thành quả. Chúng ta muốn bảo tồn di sản lịch sử nầy cho các thế hệ trẻ của người Mỹ gốc Việt. hôm nay và mai sau.

Hội Bảo Tồn Di Sản Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt đã thu thập được hơn 200,000 trang tài liệu về người Việt tỵ nạn. Các tài liệu này đã được hội viên của hội và nhiều cá nhân trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt gởi tặng. Có hàng chục ngàn trang tài liệu, thư từ, hình ảnh liên quan tới cuộc di tản chính trị của người Việt Nam. Có hàng ngàn trang tài liệu ghi lại các kinh nghiệm của thuyền nhân trốn đi dưới sự kiểm soát của chính phủ Cộng sản Việt nam và việc họ đối phó với các hiểm nguy của biển cả và hải tặc. Cũng có hàng ngàn trang khác nói về cuộc sống trong các trại tù Cộng sản, hàng ngàn trang ghi lại những cố gắng vận động với các nhà lập pháp, hành pháp và các cơ quan khác của chính phủ Hoa Kỳ, cũng như với chính phủ Việt nam với hy vọng đem lại được tự do cho người dân Việt nam bị áp bức. Trong nhiều trường hợp. những cố gắng này vẫn còn đang tiếp tục.
Không giống như nhiều nhóm di dân khác đã có những nguồn gốc ăn sâu trong sự hy sinh của tổ tiên họ trong thời nội chiến Nam – Bắc hay dưới thời chiến tranh dành độc lập của Mỹ, máu hi sinh của chúng ta đã đổ trên cuộc hành trình chúng ta đển đây. Hơn thế nữa, chúng ta cũng dã phải tranh đấu cho sự hiện diện của chúng ta. Tại Hoa kỳ, có những cố gắng không ngừng nghỉ để đấu tranh với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để thuyết phục các chánh khách rằng: có rất nhiều lý do tốt để chấp nhận người Việt tị nạn vào Mỹ cũng như lý do khiến họ phải tìm dến đây . Những cố gắng đó đòi hỏi một chiến lược khôn khéo và thật nhiều kiên nhẫn từ cộng đồng người Việt trong suốt 3 thập niên qua.
Người ta vẫn nhớ tới bà Khúc Minh Thơ, Chủ Tịch Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam (FVPPA) và các tổ chức khác của người Mỹ gốc Việt yêu cầu chính phủ Cộng sản Việt Nam trả tự do lại cho tất cả các tù nhân chính trị và cho phép họ rời khỏi Việt nam. Chính phủ Cộng sản Việt Nam lúc đầu đã lớn tiếng từ chối việc nầy và tuyên bố “không hề có tù nhân chính trị ở Việt nam”. Thông qua các sự tiếp xúc của của thân nhân gia đình các tù nhân chính trị, tổ chức FVPPA đã ghi nhận được một số các trại tù khắp nước Việt nam và có cả tài liệu về số tù nhân chính trị bị giam giữ trong các trại tù đó. Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế đã đến thăm các trại tù này và sau đó xác nhận rằng có hàng chục ngàn tù nhân chính trị ở Việt nam. Chính phủ Cộng sản Việt nam bèn phải thú nhận hệ thống trại tù của họ và bắt đầu thương thuyết về vấn đề tù nhân chính trị ở Việt nam. Các cuộc thảo luận sau đó đã đưa tới nghị quyết 205 về chương trình nhân đạo (Humanitarian Program) do các nghị sĩ Edward Kennedy và Robert Dole bảo trợ, đệ trình lên TT Ronald Reagan ngày 5 tháng giêng năm 1987. Có hơn 30 nam nữ nghị sĩ và dân biểu thuộc luỡng đảng trong Quốc hội và cựu Phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao Robert Funseth, đại diện chính thức của chính phủ Hoa Kỳ trong cuộc điều đình đã đệ trình quyết định 212 vào tháng 9 năm 1987. Sau cùng thỏa hiệp được ký kết hôm 30 tháng 7 năm 1989 giữa Hoa kỳ và Chính phủ Cộng sản Việt nam. Quyết định 212 trở thành tài liệu căn bản chính thức cho việc trả lại tự do cho tù nhân chính trị Việt nam và đưa họ và gia đình họ qua định cư ở Hoa kỳ.
Còn có rất nhiều câu chuyện khác về việc người Mỹ gốc Việt đã tranh đấu để vượt qua các trở lực để giúp họ có được một cuộc sống tích cực với nhiều thành công ở Hoa kỳ. Các câu chuyện đó cần được kể lại để làm món quà tinh thần cho các thế hệ trẻ của người Mỹ Gốc Việt và cho những người Mỹ trẻ khác. Những kho tàng tinh thần đó cần được bảo tồn và truyền bá cho thế hệ mai sau.
Kết luận
Trong tinh thần cuả những cố gắng kể trên, Hội Bảo Tồn Di Sản Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt trân trọng thông báo rằng Trung Tâm Việt Nam của trường Đại học Kỹ thuật Lubbock, Texas, đang tiếp tay với Hội trong viêc thiết lập một thư viện về lịch sử người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi hy vọng rằng bằng thư viện nầy và với sự hỗ trợ của Trung Tâm Việt Nam, những câu chuyện độc đáo, và lịch sử hào hùng của người Mỹ gốc Việt chúng ta sẽ được bảo tồn. Khi được hoàn thành, thư viện này sẽ không phải chỉ dành cho người Mỹ gốc Việt mà đó là một thư viện ghi chép lại một cách có hệ thống về tinh thần yêu chuộng tự do của tất cả người Mỹ nói chung. Do đó, thư viện này sẽ còn dành cho mọi người Mỹ.
Hội Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa Người Mỹ Gốc Việt tha thiết mong mỏi được giữ mối giây liên lạc với tất cả quý vị để được chia xẻ, và để được tường trình tới qúy vị những diễn tiến của dự án thành lập thư viện cho người Mỹ Gốc Việt với hy vọng được sự hợp tác và hỗ trợ từ của tất cả quý vị trong việc bảo tồn di sản văn hóa tốt đẹp của chúng ta. Xin chân thành cảm tạ và Xin Chúc Mọi Sự an lành đến tất cả quý vị và gia đình.
Mọi thư từ liên lạc xin liên hệ đến địa chỉ:
Hội Bảo Tồn Di Sản Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt
The Vietnamese American Heritage Foundation
VAHF
Po Box 29534
Austin, Texas, 78755
Email:VAHF04@gmail.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.