Hôm nay,  

Từ Chó Đến Người, Bệnh Giun Chỉ

30/07/201500:00:00(Xem: 6117)

Ký sinh trùng Dirofilaria immitis là một loại giun chỉ (filaria) thường sống ký sinh trong tim chó và đôi khi cũng gặp trong tim mèo.

Đây là giun tim chó (canine heartworm). Những năm gần đây có rất nhiều báo cáo khoa học cho biết có bằng chứng giun chỉ Dirofilaria có thể từ thú lây nhiễm sang cho người.

Video: Heartworm Disease in Dogs
https://www.youtube.com/watch?v=FKKU0CzDWWw

* * *

blank
Bệnh giun từ chó tới người.

Bắt Đầu Từ Bệnh Giun Tim Chó

Giun tim chó D. immitis là một bệnh ký sinh khá phổ biến khắp thế giới. Bệnh thường xảy ra nhiều nhất ở loài chó, bất kỳ con đực hay cái, bất kỳ tuổi tác hay nơi chốn ở.

Bệnh cũng còn có thể thấy ở mèo nhà và ở một số thú rừng như chó sói, coyote, chồn và ferret (chồn sương?), sư tử biển sea lion nữa...

Người cũng có thể bị nhiễm loại giun ký sinh nầy, tuy nhiên rất là hi hữu hiếm thấy xảy ra.

Chó là ký chủ thật sự (definitive host) của giun tim Dirofilaria immitis.

Giun trưởng thành dài từ 6 cm đến 30 cm, con đực nhỏ hơn con cái. Thông thường có từ vài chục đến một hai trăm giun sống trong tâm thất phải (right ventricle) và trong động mạch phổi (pulmonary artery) của loài chó.

Giun đực và cái giao hợp nhau đẻ ra vô số ấu trùng microfilariae giai đoạn 1 hay L1 vào trong máu.

Muỗi là ký chủ trung gian (intermediate host) của giun D. immitis.

Khi muỗi hút máu chó bệnh thì hút luôn cả ấu trùng L1.

Trong bụng muỗi, L1 sẽ chuyển biến qua nhiều giai đoạn trong vòng 2 tuần lễ để trở thành ấu trùng L3.

Sau đó, L3 di chuyển lên tuyến nước bọt của con muỗi. Chỉ có ấu trùng L3 mới có khả năng lây nhiễm (infective stage) cho thú vật và cho người. Khi muỗi hút máu một con chó, nó sẽ bôm luôn ấu trùng L3 vào con vật. L3 theo máu chạy khắp cơ thể và thường vào các sớ cơ và phát triển thành ấu trùng L4 rồi L5...

L5 được xem như thật sự là một con giun con. Cuối cùng L5 chạy về tim để tiếp tục trưởng thành. Thời gian từ lúc ấu trùng L3 xâm nhập vào cơ thể chó đến lúc chúng trở thành giun trưởng thành để có thể đẻ được thì cũng phải mất từ 7 hay 8 tháng.

Tùy theo giai đoạn phát triển và mức độ nhiễm của giun mà con chó sẽ biểu lộ ra những triệu chứng lâm sàng khác nhau, như thở khó, ho kinh niên, dễ mệt, bồn chồn (restlessness), mất cân, da và lông khô không được mướt, v.v... Giun có thể làm tắc nghẽn tim khiến tim phải tăng sức co thắt và bị triển dưỡng, yếu đi dẫn đến tình trạng suy tim (congestive heart failure) và bị báng (ascitis). Chó có thể chết.

Chẩn đoán bệnh giun tim chó có thể được thực hiện bằng nhiều cách:

1) Sử dụng kính hiển vi để tìm sự hiện diện của ấu trùng microfilariae trong máu chó.

Cách nầy có thể không hữu hiệu nếu thử quá sớm, vì số lượng ấu trùng còn quá ít, hoặc không có ấu trùng trong máu như trong trường hợp mà khoa học gọi là occult heartworm (có thể vì lý do chỉ có duy nhất một giống giun hoặc chỉ toàn là con cái hay chỉ toàn là con đực gọi là Single sex infection). Cũng có thể vì lý do giun đi lạc đường aberrant migration nên không gặp nhau để giao hợp được).

2) Tìm kháng thể (antibody) chống lại các giai đoạn của ấu trùng. Phương pháp nầy cũng không mấy hữu hiệu cho lắm vì lý do kháng thể có thể vẫn còn tồn tại trong máu một thời gian sau khi ấu trùng đã chết mất từ một vài năm về trước rồi.

3) Tìm chất sinh kháng (antigen) của giun cái đang đẻ. Kết quả rất thay đổi không đồng nhất.

4) Chụp hình quang tuyến Xray phổi và tim, để hy vọng tìm những sự biến đổi có thể nhìn thấy được chẳng hạn như tâm thất phải bị triển dưỡng và động mạch phổi phình to ra.

5) Dùng siêu âm (ultrasounds) để nhận diện sự hiện diện của giun trong tim.

Bệnh giun chỉ ở chó có thể phòng ngừa và chữa trị hữu hiệu bằng nhiều loại thuốc chích, uống, nhai hoặc thoa ngoài da mỗi tháng để diệt ấu trùng (larvae) hoặc để diệt giun trưởng thành (adult). Đó là các loại thuốc như Thiacetarsamide, Ivermectin, Diethylcarbamazine DEC, Benzimidazole, Melarsomine dihydrochloride, Macrocyclic lactone ML, Milbemycin oxime, Selamectin, Moxidectin, Heartgard...

Coi chừng phản ứng thuốc vì có vài loại có chứa arsenic rất độc. Đôi khi việc chữa trị làm chết con chó vì lý do một số lượng quá nhiều giun bị giết cũng một lúc và xác của chúng làm tắc nghẽn mạch máu qua hiện tượng thromboembolism. Thường một sồ thuốc ngừa giun tim cũng đồng thời ngừa luôn giun móc (hookworms) và một số ký sinh trùng đường ruột khác nữa.

blank
Bệnh giun từ chó tới người.

Đến Bệnh Giun Chỉ Ở Người

Điều nên nhớ là bệnh giun chỉ Dilofilariosis bắt buộc phải qua trung gian của con muỗi (Aedes, Culex, Anopheles) mới có thể phát triển và truyền lây được. Muỗi vừa là ký chủ trung gian vừa là vector của giun chỉ.

Người được xem là ký chủ rủi ro (accidental host) khác với chó là ký chủ tự nhiên (natural host) của giun Dirofilaria. Khi muỗi cắn, ấu trùng L3 được muỗi bôm vào máu nhưng hầu như tất cả đều bị hệ miễn dịch tiêu diệt hết, ngoại trừ một số ít còn sót lại và tiếp tục phát triển trong cơ thể.

Tuy nhiên, vì người là ký chủ rủi ro cho nên sự tăng trưởng của giun không bao giờ được trọn vẹn, nghĩa là không thể đạt tới giai đoạn giun trưởng thành sinh dục(sexually mature) vì vậy chúng không thể đẻ được.

Bởi lý do nầy cho nên không thấy có ấu trùng microfilariae trong máu của người, và cũng không có vấn đề lây nhiễm giun chỉ từ người nầy sang cho người khác được.

Hai loại giun sau đây thường thấy hay lây sang cho người:

-* Dirofilaria immitis là giun tim chó. Ở người, thay vì chạy vào tim chúng lại chạy vào các nhánh của động mạch phổi, gây tắc nghẽn lưu thông máu và qua hiện tượng infarction (mô nhồi máu) gây tổn thương một vùng phổi. Một nốt hay nodule lối 2cm được thành lập ngay nơi đó. Nếu nhìn qua hình quang tuyến Xray, sẽ thấy vết nám tròn cỡ đồng xu trên phổi ngay chỗ nodule. Trường hợp nầy rất dễ nhầm lẫn với bệnh tích lesion của cancer phổi.

-* Dirofilaria (Notchtiella) repens, thường định vị trong những nốt dưới da chó và mèo. Ở người, giun có thể định vị trong một thời gian một vài năm trong các nốt dưới da (subcutaneous nodule), vùng vú, trong bìu scrotum dịch hoàn và dưới lớp kết mạc của mắt (subconjunctival space). Khi giun chết, các nốt trở thành calci hóa.

Theo tài liệu cho biết, từ trước tới giờ cả thế giới đã có lối 782 ca nhiễm giun chỉ D. repens từ súc vật sang cho người.

Đôi khi giun vẫn còn sống ngọ ngoẹ lúc được phát hiện ra. Điển hình là vào tháng giêng 2008 Đại học Y Hà nội có báo cáo lần đầu tiên Việt Nam đã tìm thấy được giun D. repens còn sống trong lớp kết mạc nơi mắt một bệnh nhân. Giun nằm cuộn tròn trong một cái kén trong lớp kết mạc của mắt. Sau khi mổ, giun đo được 12 cm.

Giun ký sinh ở mắt người dài... 12 cm
http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Giun-ky-sinh-o-mat-nguoi-dai-12-cm/20764508/188/

Chó vùng Địa Trung Hải có tỷ lệ nhiễm giun D. repens rất cao.

Italy và SriLanka là hai quốc gia cố số người bị nhiễm D. repens quan trọng nhất.

CDC-Dirofilariasis FAQs
http://www.cdc.gov/parasites/dirofilariasis/faqs.html

Kết Luận

Các khảo cứu về dịch tể học đã cho chúng ta biết là số người bị nhiễm giun chỉ Dirofilaria từ thú không ngừng gia tăng thêm mãi... Các nơi được thấy báo cáo là các xứ thuộc khối Liên bang Sô viết cũ, Tiệp Khắc, Đài Loan, Ấn độ, SriLanka, Iran, Do Thái, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ý Đại Lợi, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Hung Gia Lợi, Slovakia, Tunisie, Brazil, Úc Châu, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, v.v...

Ngày nay, giới y khoa đã ý thức và cảnh giác hơn khi xưa về những bệnh từ thú lây sang cho người. Các tiến bộ khoa học cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chẩn đoán được nhanh hơn và chính xác hơn. Ngoài ra, hiện tượng hâm nóng toàn cầu (global warming) có thể được xem như yếu tố mấu chốt làm thay đổi môi sinh và sinh thái cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi phát triển dễ dàng và có thể hút máu một số lượng lớn thú và người kể cả tại những vùng mà từ xưa nay được xem như có ít muỗi.

Quả thật, Dirofilariosis là một bệnh từ thú sang người hay là một zoonosis đang lên!

Phòng ngừa bệnh giun chỉ ở chó mèo là việc cần phải quan tâm đến, tuy nhiên vấn đề nầy không đơn giản và dễ thực hiện. Trong thực tế còn rất nhiều người chưa ý thức đúng mức tầm quan trọng của bệnh giun tim chó. Số lượng chó hoang quá lớn đang tự do lưu hành tại nông thôn và thành thị ở các quốc gia đang phát triển cùng với như một số thú rừng là những vật chủ hay reservoir trường kỳ của giun chỉ Dirofilaria. Ngoài ra còn vấn đề muỗi nữa, không thể nào có biện pháp kiểm soát hữu hiệu 100% được hết.

Loại bỏ hoàn toàn ký sinh trùng Dirofilaria ở chó là một việc không tưởng.

Đây là vấn đề nan giải mà các nhà y tế công cộng đang cố gắng bù đầu tìm cách giải quyết được chừng nào tốt chừng đó./.

Tham khảo:

- Claudio Genchi et als. Dirofilariosis in humans: Is it a Real Zoonotic Concern.
http://www.vin.com/proceedings/Proceedings.plx?CID=WSAVA2005&PID=10908&O=Generic

- James C. Wright,DVM, PhD et als Dirofilariosis. College of Vet Med, Aubum Univ. JAVMA, Mar 1995.
http://www.avma.org/reference/zoonosis/zndirofi.asp#reference

- Subu Lucy et als. Dirofilariosis in Dogs & Humans in Kerala. Indian Journ.of Med. Research; May 2005.
http://findarticles.com/p/articles/mi_qa3867/is_200505/ai_n13643572/pg_1

- Holly Nash,DVM,MS. Heartworm in Dog
http://www.peteducation.com/article.cfm?cls=2&cat=1621&articleid=743

- Pampiglione S, Rivasi F. Human Dirofilariasis due to Dirofilaria (Nochtiella) repens: an update of world literature from 1995 to 2000. MedLine, Dec 2000.
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/11686084

Montreal

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
Cách đâu 30-40 năm, lúc người tỵ nạn Việt mới định cư ở Mỹ và bắt đầu làm quen với các tập tục kể những tập quán về y tế ở Mỹ, trong y giới Mỹ cũng như các nước tây phương khác đang tranh cãi rất nhiều về chỉ định có nên cắt bao quy đầu theo thông lệ (routine circumcision) cho trẻ em sơ sinh hay không. Thuật ngữ “circumcision”, gốc latinh “circumcisio”. Từ "cắt bao quy đầu" xuất phát từ các từ Latin circum và caedo (circum: “xung quanh”; caedo: “tôi cắt”), có nghĩa đen là "cắt xung quanh". Từ epitome trong tiếng Hy Lạp cũng có nguồn gốc từ gốc có nghĩa là "cắt" hoặc "vết mổ". Trong tiếng Hebrew (Do Thái), phép cắt bao quy đầu được gọi là “peritomy”, xuất phát từ tiếng Hy Lạp peritomy.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.