Hôm nay,  

Sinh Tố B12 Trong Dinh Dưỡng

03/07/201500:00:00(Xem: 8421)

VITAMIN B 12 (cyanocobalamin), cần trong việc tạo lập hồng huyết cầu, có ích cho tủy xương, giúp tế bào phân cắt và tăng trưởng cũng như bảo vệ bao myelin của dây thần kinh...

Vitamin B12 còn hoạt động phối hợp với chất folic acid hay folate (Vitamin B9) trong các biến dưỡng của một vài loại amino acids, acids béo và DNA.

* * *

Vậy, Vitamin B12 từ đâu mà có?

B12 được tổng hợp bởi một vài loại vi sinh vật sống trong bộ máy tiêu hóa của thú vật.

Ở các loài thú nhai lại (ruminant) như trâu, bò, dê, cừu, hươu, nai, cũng như các loài vi sinh vật trong dạ cỏ (rumen) tức là bao tử thứ nhất có nhiệm vụ chuyển hóa chất cellulose từ rơm rạ và cỏ ra thành các chất dinh dưỡng, đồng thời cũng tổng hợp ra vitamin B12.

Một khi được hấp thụ vào máu, B12 được phân phối đi khắp nơi.

Ở loài bò, gan là cơ quan chứa nhiều B12 nhất, kế đến là thận.

Ở người, phần kết tràng (colon) của ruột già là nơi vi khuẩn tổng hợp B12, nhưng vitamin nầy không được hấp thụ tại đây mà lại bị thải ra ngoài theo phân...

Trong môi sinh, một vài loại vi khuẩn trong đất cũng tổng hợp được vitamin B12.

Để cho việc tổng hợp B12 có thể xảy ra được cần phải có sự hỗ trợ của một bần tố (oligoelement), đó là cobalt. Chất nầy hiện diện trong đất và trong rau cỏ.

Thú vật lúc ăn cỏ thường ăn luôn cả đất cát có chứa vitamin B12, nhờ vậy chúng thỏa mãn đủ nhu cầu về vitamin nầy...

Đối với con người, chúng ta thường rửa sạch rau quả mỗi khi ăn, và vitamin B12 hiện diện trong đất cát bám ở bên ngoài mặt các rau quả nầy, phần lớn đều bị trôi đi hết.

Ở một số loài vật như thỏ, chúng thường có thói quen ăn phân trở lại mỗi khi được bài tiết ra ngoài. Sự kiện nầy giúp chúng thỏa mãn đủ nhu cầu về B12...

blank
Có cần sinh tô B-12?

Sinh tố B12 trong thực phẩm chay

Các nhà khoa học đều xác nhận rằng hầu như tất cả các thức ăn nguồn gốc thực vật đều không có chứa vitamin B12, ngoại trừ một vài loại thực phẩm, như đậu nành ủ lên men Miso (giống như tương) của Nhật Bản và Tempeh của Nam Dương, tảo vi sinh Spurilina, Chlorella và rong biển Nori, Wakame, v.v.

Các loại thực phẩm vừa kể trên, phần lớn đều có chứa những chất tương tự như vitamin B12, nhưng lại không có hoạt tính (inactive), khoa học gọi chúng là B12 analogues, cơ thể không thể sử dụng được. Chỉ một số rất ít B12 còn lại mới là B12 thật sự hữu dụng mà thôi!

Có một điểm cần nên nhớ là miso, tương, chao, nước tương và xì dầu đều rất…mặn vì có chứa rất nhiều muối sodium, nếu ăn nhiều và ăn thường xuyên sẽ có hại cho tim hay thận hoặc có thể làm tăng áp suất động mạch. Vậy chúng ta hãy nên cẩn thận!

Ngoài ra, các loại men dinh dưỡng như men bia (brewess yeast) cũng có chứa B12.

Men bia dưới dạng viên hoặc bột được dùng để uống hoặc pha vào nước trái cây nhằm mục đích bồi bổ sức khỏe. Spurilina và men bia được thấy bán trong các tiệm thuốc tây và trong các tiệm bán thực phẩm thiên nhiên...

Nói tóm lại, nguồn cung cấp B12 tốt nhất của chúng ta vẫn là từ các sản phẩm gốc động vật

Nguồn cung cấp sinh tố B12

B12 có nhiều nhất trong gan bò (100gr gan chứa 60mcg B12), kế đến là trong thận, thịt bò (100gr có 0.6mcg B12), thịt gà (0.3mcg), thịt heo (0.6mcg), trong cá (4-5mcg), hột gà (0.5mcg), tôm cua sò và trong sữa, fromage (0.25-0.5mcg)...

Khi chúng ta dùng những thực phẩm có chứa Vitamin B12, chất hydrochloric acid trong dịch vị tiêu hóa sẽ giúp phóng thích B12 ra ngoài.

Đồng thời một chất khác được gọi là yếu tố nội tại (intrinsic factor) tiết ra từ niêm mạc bao tử sẽ kết hợp với vitamin B12. Lúc đi qua phần hồi tràng (ileum) của ruột non, B12 sẽ được các thụ thể chuyên biệt (specific receptors) tại đây hấp thụ vào máu. Ruột già không hấp thụ được B12.

blank
Có cần sinh tô B-12?

Trong cơ thể, phần lớn B12 được dự trữ trong gan

Nhu cầu hằng ngày của chúng ta về B12 rất ư là thấp, khoảng 2.5 - 3mcg (micrograms).

Nhu cầu nầy phải cao hơn đối với phụ nữ trong thời gian mang thai hoặc đang cho con bú.

Vì thực vật không có B12 nên các người ăn trường chay thuần túy (vegan) cần phải uống thêm các supplements có chứa B12, hoặc dùng những loại sản phẩm hay thức ăn đã được tăng cường (fortified) thêm B12. Nhờ gan có khối dự trữ dồi dào cho nên trong điều kiện ăn uống thiếu B12, thì cũng phải từ 3 năm trở lên mới thấy các triệu chứng của việc thiếu vitamin B12 xuất hiện ra.

Thường thì bệnh nhân sẽ cảm thấy bần thần mệt mỏi, kèm theo các dấu hiệu của hiện tượng thiếu máu, dễ bị lạnh, lâu ngày sẽ có các triệu chứng thần kinh, thay đổi tâm tính, trí nhớ kém, trầm cảm, tê tay tê chân, mất thăng bằng lúc đi đứng, v.v.

Bệnh thiếu máu do thiếu B12 được gọi là bệnh thiếu máu ác tính (pernicious anemia) rất nguy hiểm.

Đôi khi ăn uống đầy đủ B12 nhưng vẫn bị thiếu máu như thường, trường hợp nầy xảy ra khi B12 không được hấp thụ ở ruột non vì thiếu sự trợ giúp của hydrochloric acid, hoặc thiếu chất nội tại của bao tử.


Ngoài ra, rượu hay thuốc lá cũng như một vài loại thuốc ngừa thai hay các thuốc làm giảm độ chua (antacid) của bao tử chẳng hạn như Tagamet, Zantac, Nexium, Pepcid cũng có thể làm giảm phần nào sự hấp thụ của B12.

B12 ở phụ nữ đang mang thai hoặc cho con bú

B12 đi qua màng nhau trong thời gian mang thai và hiện diện một cách tự nhiên trong sữa mẹ. Để cung cấp đủ nhu cầu B12 cho đứa bé, những bà mẹ cần phải ăn uống cho đầy đủ.

Những bà mẹ ăn chay cần phải uống thêm sinh tố B12.

B12 ở người cao tuổi

Tình trạng thiếu B12 có thể xảy ra ở người cao tuổi bởi những nguyên nhân như sau: bữa ăn thiếu sự đa dạng, hoặc ăn ít…

Các cụ thường bị rơi vào tình trạng kém hấp thụ B12 từ thực phẩm.

Lại nữa, có khoảng từ 10% - 30% người già thường hay bị viêm teo bao tử mãn tính (gastrite atrophique chronique). Vào lứa tuổi trên 80, tỉ lệ nầy có thể lối 40%.

Đây cũng là một nguyên nhân chính của bệnh lý nói trên. Tuổi càng cao thì bị viêm teo bao tử càng trầm trọng thêm hơn nữa.

Biểu lộ của bệnh là acide chlorhydrique tiết ít đi trong bao tử và làm giảm hấp thụ B12 hiện diện trong các chất đạm proteine của thực phẩm.

Cùng một lúc với sự tuột giảm nồng độ của acide chlorhydrique, là sự gia tăng của các nhóm vi khuẩn đường ruột.

Chính các loại vi khuẩn nầy sử dụng B12 để tăng trưởng và làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu B12 trong cơ thể.

Bệnh viêm teo bao tử có thể có nhiều nguyên nhân và thường được thấy ở các bệnh nhân mắc phải chứng thiếu máu ác tính.

blank
Có cần sinh tô B-12?

Một số duợc phẩm có thể ảnh hưởng vào sự hấp thụ B12:

+/ Acide folique: Về phương diện sinh hóa, acide folique và B12 kết hợp với nhau rất chặt chẽ. Bởi vậy việc tổng hợp ADN trong các tế bào tạo huyết (cellules hématopoiétiques) sẽ bị ảnh hưởng nếu thiếu một hoặc hai chất trên.

+/ Inhibiteurs de la pompe à protons (IPP): Các loại thuốc nầy được sử dụng để trị loét bao tử ulcère gastro duodénal bằng cách làm giảm sự tiết ra acide chlorhydrique trong bao tử và có khả năng cản trở việc hấp thụ B12 có trong thực phẩm. Tuy nhiên, sự hấp thụ B12 tự do (B12 libres) không bị ảnh hưởng bởi việc uống các loại thuốc IPP. Thí dụ thuốc Omeprazole (Losec) và Pantoprazol (Pantoloc)…

+/ Antagonistes des récepteurs H2: Các thuốc trị loét bao tử loại nầy ảnh hưởng vào việc hấp thụ B12 cũng tương tợ như đối với IPP. Thí dụ như Cimétidine (Tagamet), Ranitidine (Zantac)…

+/ Metformine: hay Glucophage, thuốc trị tiểu đường. Ảnh hưởng của thuốc vào sự hấp thụ B12 chưa được sáng tỏ cho lắm.

Các suppléments vitamin B12

Tại Canada các loại bổ sung hay suppléments vitamin B12 để uống được trình bày dưới dạng viên, viên để dưới lưỡi và dạng lỏng.

Ngoài ra còn còn có dạng tem để dán ngoài da (vitamin B12 patch, bandes fondantes). Thuốc sẽ từ từ ngấm qua da để vào cơ thể.

Trong đa số trường hợp, các suppléments B12 được thấy dưới dạng cyanocobalamine, hoặc dạng cobolamine cristalline. Tuy nhiên một số viên cũng có thể chứa chất méthylcobalamine hoặc một dạng nào khác của B12.

Thường thì các suppléments B12 dễ hấp thụ nếu được uống lúc ăn.

Đối với các viên B12 để ngậm dưới lưỡi comprimés sublingaux, theo như nhãn hiệu ghi, chúng có tính khả dụng biodisponibilité cao hơn các viên B12 để uống.

Ngày nay, người ta cũng thường hay dùng dạng chích để trị trường hợp cơ thể thiếu B12.

Tại Québec, vitamin B12 dạng uống không được cơ quan bảo hiểm sức khỏe của chánh phủ (RAMQ) trả tiền, ngược với dạng chích. Ngoài ra, cũng chưa có một sự ấn định rõ rệt nào về liều lượng và thời gian sử dụng vitamin B12 qua ngõ miệng per os.

Theo các tài liệu có được từ 1968 thì dạng uống cũng hữu hiệu như dạng chích vậy.

Nói chung, vitamin B12 loại viên để uống cho thấy rất an toàn và hữu hiệu mà giá cũng không mấy gì đắt lắm.

Vitamin B12 là đề tài tranh luận chính yếu giữa phe ăn chay và phe ăn mặn

Phe ăn chay hù dọa mọi người về hiểm họa bệnh tật và cancer do việc ăn thịt có thể gây ra…

Phe ăn mặn thì cũng phóng đại các ảnh hưởng tiêu cực như ăn chay sẽ bị mất sức khỏe, sẽ bị thiếu vitamin B12; hoặc dễ bị thiếu máu, dễ bị hết xí quách, v.v.

Kết Luận:

Tại Bắc Mỹ, vấn đề thiếu sinh tố B12 rất hiếm thấy xảy ra.

Tuy nhiên, các cụ cao tuổi ăn uống yếu kém, các sản phụ cũng như các người ăn chay khắc khe nên lưu ý đến điểm nầy.

Uống thêm supplément B12 là chuyện cần phải bàn đến vậy./.

Tham khảo:

****Julie Simard Sauvageau, B. Pharm-Tout sur la vitamine B12! Formation Continue- L Actualité Pharmaceutique 1 Mai 2011- Québec (tài liệu dành cho dược sĩ)
http://www.professionsante.ca/files/2011/11/LAP_vol19_no4_052011.pdf

Video:Symptoms of Vitamin B 12 Deficiency
https://www.youtube.com/watch?v=p0da1xrELcA

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.