Truy Tầm Ung Thư Vú Và Tử Cung Cho Người Già
Bs Louise Walter và các đồng nghiệp nghiên cứu 4792 bệnh nhân người già trên 70 tuổi trong một chương trình tên là California Health Interview Survey trong thời gian từ November 2000 tới October 2001, chăm chú vào 2 tìm hiểu: truy tầm ung thư cổ tử cung cho phụ nữ và chụp hình vú, mammography. Tức là những phụ nữ đã chụp hình vú trong vòng 3 năm và truy tầm ung thư cổ tử cung trong vòng 2 năm gần đây.
Kết quả cho thấy 78% phụ nữ chụp hình vú và 77% phụ nữ truy tầm ung thư cổ tử cung trong thời gian 2-3 năm.
Tỉ số truy tầm ung thư giảm theo tuổi.
Tuy nhiên mặc dầu phụ nữ bị bệnh nặng hơn cũng không giảm tỉ lệ truy tầm ung thự (p> 0.1). Hơn phân nửa bệnh nhân trên 80 tuổi mặc dầu bị bệnh trầm trọng nhất cũng vẫn đi chụp hình vú và truy tầm ung thư cổ tử cung.
Tóm lại, tỉ lệ phụ nữ lớn tuổi ở Calìoania truy tầm ung thư vú và cổ tử cung cao. Mặc dầu tỉ lệ truy tầm ung thư có thuyên giảm đối với những người lớn tuổi, nhưng phụ nữ bị bệnh trầm trọng vẫn đi khám ung thư tử cung phụ nữ và chụp hình mammogam.
Tuy nhiên theo các tác giả thì phụ nữ lớn tuổi và khỏe mạnh nên truy tầm ung thư vú và tử cung nhiều hơn.
Trái lại, những người đã quá lớn tuổi lại bị bệnh trầm trọng thì vấn đề truy tầm ung thư vú và tử cung chưa chắc đã lợi ích gì nhiều.
(Annals of Internal Medicine, May 2004)
Bệnh Động Mạch Vành Tim Liên Hệ Độ Kháng Insulin
Bs Manuel J. Quinones và các đồng nghiệp thuộc Đại Học California, Los Angeles nghiên cứu bệnh nhân Mễ Mỹ trong đó 50 bệnh nhân có tính kháng Insulin (Insulin-resistant) và 22 bệnh nhân trong tình trạng nhạy cảm insulin (insulin-sensitive).
Xác định kha’ng insulin bằng cách do vận tốc đường glucose truyền vào bệnh nhân phản ứng theo vận tốc độ truyền Insulin.
Ngược lại, độ nhạy cảm của Insulin do xác định độ đường phản ứng theo mức insulin truyền vào người.
Máu chạy trong cơ tim phản ứng dipyridazole đo bằng máy positron emission tomography không khác biệt giữa bệnh nhân có insulin nhạy cảm so với bệnh nhân kháng insulin.
Dùng thử nghiệm cold pressor test cho thấy tăng cao 47% ở bệnh nhân có độ nhậy cảm insulin so với bệnh nhân kháng insulin tăng cao 14.4%.
Khi trị liệu bằng thiazolidinedione trong nhóm bệnh nhân nhạy cảm insulin thì thấy mức insulin trong huyết tương thuyên giảm và luồng máu chạy trong động mạch vành cơ tim không thay dổị
Tổng kết quả cho thấy bệnh nhân bị kháng insulin không có cholestol cao trong máu, không bị bệnh cao máu và bệnh nhân không hút thuốc lá có mạch máu cơ tim bất bình thường.
Nghiên cứu còn cho thấy khi dùng thiazolidinedione điều trị thì những yếu tố kể trên trở thành bình thường.
Kết quả kể trên khuyến cáo sự sự liên hệ giữa hiện tượng kháng insulin và động mạch vành tim.
(Annals of Internal Medicine, 140: 1, 2004)
Não Bộ Điều Hành Năng Lượng Trong Cơ Thể: Kích Thích Tố Leptin, Insulin và Adiponectin
Hệ thống não bộ đóng vai trò trong việc điều hành tích trữ và tiêu hủy năng lương trong cơ thể. Khảo cứu cho thấy chính phần não hypothalamus đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành tăng ăn uống, tăng cân lượng, hay giảm ăn uống và làm xuống cân.
Ngay cả cách ăn uống của con người cũng điều hành bởi những bộ phận đặc biệt của não bộ như caudal brainstem, cấu trúc phần rìa não (limbic) và vỏ não (cortical). Giả thuyết điều hành mỡ từ não cho biết hypothalamus điều hành tích trữ mỡ và dinh dưỡng mỡ trong cơ thể.
Một dấu hiệu "làm mập" chẳng hạn phát ra tùy theo số lượng mỡ tích tụ, trực tiếp tác dụng vào não, thay đổi điều kiện tích trữ hay tiêu hao năng lượng trong cơ thể.
Chính leptin và insulin đã đóng vai trò quan trọng nàỵ
Trong một lý thuyết nghiên cứu khác gần đây cho biết tế bào mỡ tiết ra kích thích tố adiponectin cũng đóng vai trò điều hành dinh dưỡng đường trong những mô ngoại biên.
Kết quả nghiên cứu cho biết adiponectin có thể tác dụng vào não bộ làm giảm cân lượng và điều chỉnh dinh dưỡng đường trong cơ thể.
(Nature: Monitoring of store and available fuel by the CNS: implications for obesity by Randy J. Seeley & Stephen C. Woods.)
Trẻ Em Sinh Ra Từ Ống Nghiệm Sẽ Được Quyền Biết Nguồn Gốc Của Mình
Trong một đạo luật mới bên Anh đang chờ quốc hội duyệt xét thì kể từ 1 April năm 2005 thì trẻ em sinh ra đời từ trong ống nghiệm được quyền tìm kiếm cha mẹ khi trưởng thành lớn lên trên 18 tuổi.
Luật này sẽ không có hiệu quả đối với những người cho trứng hay tinh trùng trước tháng Tư năm 2005.
Và như vậy có nghĩa là cho tới năm 2023, những đứa trẻ tới 18 tuổi sẽ được biết gốc gác của mình.
Theo Bộ Trưởng Melanie Johnson bên Anh thì điểm quan trọng là những đứa trẻ sinh ra từ ống nghiệm có thể biết nguồn gốc di truyền của chính mình.
Thảo luận đã do Bộ Trưởng Melanie Johnson nêu lên trong cuộc hội thảo hàng năm bên Anh của hội Human Fertilisation and Embryology Authority.
(Independent.co.uk).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Đi ê.n Thoa.i: (714) 547-3915, E-mail: Tran.Ngo@verizon.net; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/
Bs Louise Walter và các đồng nghiệp nghiên cứu 4792 bệnh nhân người già trên 70 tuổi trong một chương trình tên là California Health Interview Survey trong thời gian từ November 2000 tới October 2001, chăm chú vào 2 tìm hiểu: truy tầm ung thư cổ tử cung cho phụ nữ và chụp hình vú, mammography. Tức là những phụ nữ đã chụp hình vú trong vòng 3 năm và truy tầm ung thư cổ tử cung trong vòng 2 năm gần đây.
Kết quả cho thấy 78% phụ nữ chụp hình vú và 77% phụ nữ truy tầm ung thư cổ tử cung trong thời gian 2-3 năm.
Tỉ số truy tầm ung thư giảm theo tuổi.
Tuy nhiên mặc dầu phụ nữ bị bệnh nặng hơn cũng không giảm tỉ lệ truy tầm ung thự (p> 0.1). Hơn phân nửa bệnh nhân trên 80 tuổi mặc dầu bị bệnh trầm trọng nhất cũng vẫn đi chụp hình vú và truy tầm ung thư cổ tử cung.
Tóm lại, tỉ lệ phụ nữ lớn tuổi ở Calìoania truy tầm ung thư vú và cổ tử cung cao. Mặc dầu tỉ lệ truy tầm ung thư có thuyên giảm đối với những người lớn tuổi, nhưng phụ nữ bị bệnh trầm trọng vẫn đi khám ung thư tử cung phụ nữ và chụp hình mammogam.
Tuy nhiên theo các tác giả thì phụ nữ lớn tuổi và khỏe mạnh nên truy tầm ung thư vú và tử cung nhiều hơn.
Trái lại, những người đã quá lớn tuổi lại bị bệnh trầm trọng thì vấn đề truy tầm ung thư vú và tử cung chưa chắc đã lợi ích gì nhiều.
(Annals of Internal Medicine, May 2004)
Bệnh Động Mạch Vành Tim Liên Hệ Độ Kháng Insulin
Bs Manuel J. Quinones và các đồng nghiệp thuộc Đại Học California, Los Angeles nghiên cứu bệnh nhân Mễ Mỹ trong đó 50 bệnh nhân có tính kháng Insulin (Insulin-resistant) và 22 bệnh nhân trong tình trạng nhạy cảm insulin (insulin-sensitive).
Xác định kha’ng insulin bằng cách do vận tốc đường glucose truyền vào bệnh nhân phản ứng theo vận tốc độ truyền Insulin.
Ngược lại, độ nhạy cảm của Insulin do xác định độ đường phản ứng theo mức insulin truyền vào người.
Máu chạy trong cơ tim phản ứng dipyridazole đo bằng máy positron emission tomography không khác biệt giữa bệnh nhân có insulin nhạy cảm so với bệnh nhân kháng insulin.
Dùng thử nghiệm cold pressor test cho thấy tăng cao 47% ở bệnh nhân có độ nhậy cảm insulin so với bệnh nhân kháng insulin tăng cao 14.4%.
Khi trị liệu bằng thiazolidinedione trong nhóm bệnh nhân nhạy cảm insulin thì thấy mức insulin trong huyết tương thuyên giảm và luồng máu chạy trong động mạch vành cơ tim không thay dổị
Tổng kết quả cho thấy bệnh nhân bị kháng insulin không có cholestol cao trong máu, không bị bệnh cao máu và bệnh nhân không hút thuốc lá có mạch máu cơ tim bất bình thường.
Nghiên cứu còn cho thấy khi dùng thiazolidinedione điều trị thì những yếu tố kể trên trở thành bình thường.
Kết quả kể trên khuyến cáo sự sự liên hệ giữa hiện tượng kháng insulin và động mạch vành tim.
(Annals of Internal Medicine, 140: 1, 2004)
Não Bộ Điều Hành Năng Lượng Trong Cơ Thể: Kích Thích Tố Leptin, Insulin và Adiponectin
Hệ thống não bộ đóng vai trò trong việc điều hành tích trữ và tiêu hủy năng lương trong cơ thể. Khảo cứu cho thấy chính phần não hypothalamus đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành tăng ăn uống, tăng cân lượng, hay giảm ăn uống và làm xuống cân.
Ngay cả cách ăn uống của con người cũng điều hành bởi những bộ phận đặc biệt của não bộ như caudal brainstem, cấu trúc phần rìa não (limbic) và vỏ não (cortical). Giả thuyết điều hành mỡ từ não cho biết hypothalamus điều hành tích trữ mỡ và dinh dưỡng mỡ trong cơ thể.
Một dấu hiệu "làm mập" chẳng hạn phát ra tùy theo số lượng mỡ tích tụ, trực tiếp tác dụng vào não, thay đổi điều kiện tích trữ hay tiêu hao năng lượng trong cơ thể.
Chính leptin và insulin đã đóng vai trò quan trọng nàỵ
Trong một lý thuyết nghiên cứu khác gần đây cho biết tế bào mỡ tiết ra kích thích tố adiponectin cũng đóng vai trò điều hành dinh dưỡng đường trong những mô ngoại biên.
Kết quả nghiên cứu cho biết adiponectin có thể tác dụng vào não bộ làm giảm cân lượng và điều chỉnh dinh dưỡng đường trong cơ thể.
(Nature: Monitoring of store and available fuel by the CNS: implications for obesity by Randy J. Seeley & Stephen C. Woods.)
Trẻ Em Sinh Ra Từ Ống Nghiệm Sẽ Được Quyền Biết Nguồn Gốc Của Mình
Trong một đạo luật mới bên Anh đang chờ quốc hội duyệt xét thì kể từ 1 April năm 2005 thì trẻ em sinh ra đời từ trong ống nghiệm được quyền tìm kiếm cha mẹ khi trưởng thành lớn lên trên 18 tuổi.
Luật này sẽ không có hiệu quả đối với những người cho trứng hay tinh trùng trước tháng Tư năm 2005.
Và như vậy có nghĩa là cho tới năm 2023, những đứa trẻ tới 18 tuổi sẽ được biết gốc gác của mình.
Theo Bộ Trưởng Melanie Johnson bên Anh thì điểm quan trọng là những đứa trẻ sinh ra từ ống nghiệm có thể biết nguồn gốc di truyền của chính mình.
Thảo luận đã do Bộ Trưởng Melanie Johnson nêu lên trong cuộc hội thảo hàng năm bên Anh của hội Human Fertilisation and Embryology Authority.
(Independent.co.uk).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Đi ê.n Thoa.i: (714) 547-3915, E-mail: Tran.Ngo@verizon.net; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/
Gửi ý kiến của bạn