Hôm nay,  

Chạy Trời Không Khỏi Nắng: Ăn Gì Bây Giờ

02/08/201300:00:00(Xem: 12390)
Tất cả các cuộc thăm dò dư luận đều cho biết là người tiêu thụ rất đổi quan tâm đến sự hiện diện của các loại hoá chất cấm trong thực phẩm. Không ai có thể biết được những gì sẽ xảy ra cho sức khỏe chúng ta trong vài ba chục năm sau.

Thống kê Statistics Canada 2009 cho biết cancer là nguyên nhân tử vong hàng đầu (30%) trước bệnh tim mạch (21%) và tai biến mạch máu não (6%).

Video: FOOD Inc by PBS
(Mặt trái của kỹ nghệ thực phẩm)Phim dài 24 phút
http://video.pbs.org/video/1143263943/

Mọi người đều sợ bị ung thư

Giới kỹ nghệ đã cảm nhận được điều này và để trấn an người tiêu thụ nên thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một một vài loại sản phẩm có đề thêm câu: Không có thêm chất bảo quản, không có hóa chất, không có phẩm màu, không có hàn the v.v…

Không biết chúng ta có thể tin họ được hay không? Riêng người gõ thì nghĩ rằng đây chỉ là một mánh khóe quảng cáo và khuyến mãi mà thôi!

Các quốc gia Âu Mỹ, tuy là được tiếng có luật lệ kiểm soát thực phẩm rất “chu đáo”, nhưng cũng không thể nào bảo đảm một cách tuyệt đối là 100% sản phẩm ngoại nhập bán ra đều trong lành hết đâu!

Chung qui cũng tại vì lợi nhuận mà thôi. Chuyện treo đầu bò bán thịt ngựa bên Âu châu mấy tháng trước đây là một bằng chứng không thể chối cãi được.

Tại các chợ Á Đông ở Montreal và tại nhiều nơi khác nữa, một số không ít sản phẩm như nem, chả đầu, giò thủ, v.v… đều là những mặt hàng ngoài luồng nghĩa là không được sản xuất từ một nhà máy có đăng ký và kiểm soát bởi Cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm.

Đó là chưa nói đến các loại “cơm chỉ”, chỉ món nào là mua món đó (food to go) rất phổ biến đối với bà con tại hải ngoại. Muốn ngon muốn có lời nhiều thì người bán không ngần ngại thêm “chất nầy chất nọ” trong lúc sản xuất và chế biến món ăn và thức uống.

Còn vấn đề ô nhiễm môi sinh do các chất phế thải kỹ nghệ và nông dược (pesticides) cũng rất đáng ngại và có thể ảnh hưởng vào tính trong lành của các sản phẩm bán ra.

Cũng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố

Các nhà khoa học đều nhìn nhận rằng có một số ít chất phụ gia có tiềm năng gây cancer cho người. Tuy nhiên, các nhận định nầy đều dựa vào kết quả thử nghiệm với những liều lượng thật lớn trên loài chuột mà thôi.

- Nồng độ của các chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm đều được ấn định ở mức rất thấp và rất an toàn. Nhà sản xuất không được vượt quá giới hạn nầy...(đây là nói theo luật tại Canada).

- Cách nấu nướng cũng có thể là nguyên nhân tạo ra những chất gây cancer. Đó là trường hợp chất heterocyclic aromatic amine khi nướng thịt ở nhiệt độ quá cao, hoặc chất benzopyrène do khói tạo ra khi chúng ta nướng barbecue trực tiếp trên lửa.

- Nhiệt độ cao cũng có thể chuyển nitrite trong bacon, hot dog hoặc trong thịt ướp ra thành nitrosamine, là một chất gây ra cancer. Thường xuyên ăn thịt nướng trên lửa dễ có nguy cơ bị cancer lắm đó!
an_gi_cung_chet_py_resized
Ăn gì cũng cơ nguy ngộ độc.
Ảnh hưởng trên sức khoẻ cũng rất thay đổi tùy theo loại hóa chất, nồng độ và số lượng ăn vào, có ăn thường xuyên hay không và đôi khi cũng tùy theo vào cá nhân mỗi người nữa.

Theo cơ quan Food and Nutrition Board của National Research Council Hoa Kỳ, thì 35% cancer bắt nguồn từ thói quen và cách ăn uống mà ra, như ăn quá nhiều dầu mỡ, nhiều thịt đỏ (heo-bò-dê-cừu), ít chịu ăn rau cải và trái cây tươi và hơn nữa trong tổng số trường hợp cancer vừa kể thì chỉ có 1% hay 2% gây nên bởi chất phụ gia mà thôi. (Họ nói vậy thì mình tin vậy!)

Thực phẩm bị nhiễm hóa chất từ đâu?

Hóa chất có thể gây nhiễm vào bất cứ giai đoạn nào trong tiến trình phát triển và tăng trưởng của các loài động vật và thực vật. Người ta gọi đây là hiện tượng tích lũy sinh học (bioaccumulation). Ngoài ra, trong lúc sản xuất, biến chế, bảo quản và tồn trữ, hóa chất cũng đôi khi lây nhiễm vào thực phẩm. Nguồn lây nhiễm có thể là do:

Ô nhiễm kỹ nghệ (BPC, Dioxine)

Canh nông (thí dụ, các loại nông dược)-Bà con mình thường gọi là thuốc trừ sâu rầy, diệt cỏ

Biến chế thực phẩm (các chất phụ- gia)

Các chất độc thiên nhiên (độc tố Aflatoxine từ nấm mốc)

Chất phụ gia là gì?(Additifs alimentaires, Food additives)

Đây là những chất người ta cố tình trộn thêm vào thức ăn hoặc thức uống để cho chúng khỏi bị hư thối, để kéo dài thời gian bảo quản được lâu hơn, nhưng vẫn không làm thay đổi chất lượng và hương vị của sản phẩm.

Đôi khi người ta cũng sử dụng chất phụ gia để có được một tính chất mong muốn nào đó, như để cho sản phẩm được dai, được giòn; để có một màu sắc hoặc một mùi vị thích hợp nào đó hầu dễ hấp dẫn người tiêu thụ hơn!

Nhờ chất phụ gia mà bánh mì có thể giữ được lâu ngày hơn mà không sợ meo mốc; bánh biscuit, céreal, chip giữ được độ giòn rất lâu dài; củ kiệu được trắng ngần và giòn; jambon, saucisse,nem vẫn giữ được màu hồng tươi thật hấp dẫn; dầu ăn và margarine nhờ được trộn thêm một số chất chống oxy hóa nên không bị hôi theo thời gian, v.v...

Chất phụ gia có thể có nguồn gốc thiên nhiên hay được tổng hợp hoặc bán tổng hợp hóa học (như bicarbonate de sodium), đôi khi chúng cũng được tổng hợp từ vi sinh vật, chẳng hạn như các loại enzymes dùng để sản xuất ra yogurts.

Chất phụ gia cũng có thể là các vitamins được người ta cho thêm vào thực phẩm để tăng thêm tính bổ dưỡng…

Và chất phụ gia cũng còn có thể là một hỗn hợp gồm nhiều loại virus đặc biệt nữa.

Vài năm trước đây, cơ quan FDA Hoa Kỳ đã chấp thuận cho phép chất LMP102 được bán ra thị trường như là một chất phụ gia. Đây là một hỗn hợp hay cocktail gồm có 6 virus thực bào (bactériophage). Các virus nầy có thể ăn vi khuẩn Listeria monocytogenes là loại vi khuẩn độc thường nhiễm vào các quầy thịt và các sản phẩm được làm từ sữa...

LMP102 do Cty Intralytix sản xuất để phun xịt lên các quầy thịt nhằm diệt vi khuẩn Listeria monocytogenes.

Với quyết định nầy, cơ quan FDA bị công luận chỉ trích và phê phán rất mạnh mẽ vì người ta rất lo ngại về ảnh hưởng không tốt có thể xảy đến cho sức khỏe.

Dù vậy, Cty Intralytix vẫn tiếp tục nghiên cứu thêm những mặt hàng mới tương tự và lần nầy họ nhắm vào vi khuẩn E.coli cũng là một loại vi khuẩn thường thấy trong các nhà máy thịt.

Tại Canada chất phụ gia được kiểm soát ra sao?

Cơ quan Direction générale de la Protection de la Santé, thuộc Santé Canada có nhiệm vụ phê chuẩn và ấn định hàm lượng của 400 chất phụ gia đang được sử dụng tại quốc gia nầy.

Tùy theo chức năng, chúng được xếp thành 15 nhóm. Liều lượng tối đa tồn trữ (dose maximale de residu,maximal residue levels)và liều lượng thường nhật khả chấp (dose journalière admissible, acceptable daily intake) của từng chất phụ gia đều được quy định rõ ràng.

Theo đà phát triển và khám phá mới của khoa học, người ta không ngừng điều chỉnh danh sách các chất phụ gia đã được cho phép sử dụng từ trước.

Có những chất trước kia thì được cho phép, nay thì nó lại trở thành những chất nguy hiểm nên bị cấm sử dụng, trong khi đó cũng có những chất phụ gia mới được bổ sung thêm vào trong danh sách.

Thí dụ điển hình là hai chất đường hóa học Saccharine và Cyclamate, trước kia được thấy dùng rộng rãi trong kỹ nghệ thực phẩm để làm sản phẩm diète, ngày nay đã bị Canada cấm sử dụng trong kỹ nghệ vì thấy chúng có thể gây ra cancer bọng đái ở chuột thí nghiệm với những liều lượng khổng lồ chất Saccharine.

Tuy bị cấm sử dụng trong kỹ nghệ nhưng hai loại đường này vẫn được cho phép dùng với tính cách cá nhân với liều lượng nhỏ để mỗi người tự mình bỏ vào café.

Có lẽ dưới áp lực của kỹ nghệ đường hóa học, hiện nay Santé Canada đang cứu xét để rút lại quyết định cấm sử dụng Saccharine vì theo Cơ quan nầy thì trong thực tế mối nguy cơ bị cancer ở người rất ư là thấp và không đáng kể...

Mỗi khi có ý định sản suất một sản phẩm mới, nhà sản xuất cần phải đệ nạp cho Cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm (CFIA) tất cả hồ sơ liên quan đến các công đoạn sản xuất (cách biến chế, công thức, nhãn hiệu) để được duyệt xét…

Luật Lois et Règlements sur les Aliments et drogues bắt buộc nhà kỹ nghệ phải liệt kê trên nhãn hiệu tất cả hóa chất được sử dụng trong sản phẩm.

Năm 2005, Santé Canada và CFIA có cảnh báo dân chúng về sự hiện diện của chất Sudan trong một số mặt hàng nhập cảng từ Ấn độ, Pakistan, Ghana (Phi châu), v.v…Đó là các loại tương ớt, bột ớt, bột cà ri, dầu cọ (palm oil)…

Tháng 4, 2007 cơ quan FDA Hoa Kỳ có phổ biến danh sách một số khá nhiều thực phẩm nhập cảng từ VN cũng như từ Trung Quốc đã vi phạm luật về an toàn vệ sinh thực phẩm. Đó là một vài thương hiệu tôm đông lạnh, cá đông lạnh, thịt cua đông lạnh, bao tử cá sấy khô, thịt ốc hấp chín đông lạnh, tiêu hột, bột ngủ cốc, cà phê, vv…

Các vi phạm được liệt kê: có sự hiện diện của vi khuẩn Salmonella gây bệnh thương hàn, dơ bẩn, không đúng thủ tục bao bì nhãn hiệu, có hoá chất lạ, hoá chất vượt quá liều cho phép, vv…

Là người VN với nhau, chúng ta cũng không mấy gì ngạc nhiên cho lắm!

Nước nầy cho phép, nước kia lại cấm

Các chất phụ gia cũng có thể thay đổi tùy theo từng quốc gia, có thứ được cho xài ở xứ này nhưng ngược lại bị cấm sử dụng tại xứ khác. Thí dụ phẩm màu amarante (E 123) được cho phép sử dụng tại Canada và Âu Châu, trong khi Hoa Kỳ đã cấm từ lâu vì sợ nó có thể gây ra cancer! Cùng một lý do này, phẩm đỏ allura AC (E 129) bị cấm tại nhiều quốc gia Âu Châu, nhưng lại vẫn được sử dụng tại Bắc Mỹ.
an_gi_cung_chet_co_sap__resized
Ăn gì cũng cơ nguy ngộ độc.
Tại các quốc gia Á Châu thì sao?

Xin nói thêm ở đây là tại nhiều quốc gia, đặc biệt là vùng Á Châu, tuy luật lệ của xứ họ có quy định rất rõ ràng minh bạch là những hóa chất hoặc dược phẩm nào nằm trong danh mục bị cấm sử dụng trong thực phẩm, nhưng trong thực tế con buôn trong xứ vẫn cứ xài một cách vô tội vạ như thường!

Đó là những chất mà hầu như tất cả người Việt Nam chúng ta đều có nghe nói đến như:

- hàn the (borax, borate hydraté de sodium) được tìm thấy trong thịt, cá, giò chả, trong sương sa, sương sáu, bánh đúc, mì gói, các loại đồ chua ngâm giấm. Sử dụng lâu dài có nguy cơ hại thận và bị cancer.

- chất tẩy hóa học để làm sạch trắng đồ lòng; phân urée để tăng độ đạm trong nước mắm; formol trong bánh phở; chloramphénicol, xanh malachite (Green malachite) trong việc nuôi cá nuôi tôm và phẩm màu Sudan (đỏ và cam) trong một số trứng gà trứng vịt, trong một số thực phẩm và mỹ phẩm xuất phát từ Trung quốc. Sudan được thấy gây cancer ở chuột thí nghiệm, vì vậy Canada cấm sử dụng phẩm màu nầy trong việc sản xuất thực phẩm.

Một số chất phụ gia điển hình tại Canada

*Các chất rút độ ẩm: silicate de calcium trong muối, bioxyde de silicium trong đường.

*Các chất tẩy trắng: bromate de potassium, azodicarbonamide trong bột và trong bánh mì.

*Các phẩm màu: carotène trong margarine, amarante trong kẹo. Có tất cả lối 30 phẩm màu (colorants) được cho phép sử dụng, trong số này có 10 màu hóa học nhân tạo, số còn lại có nguồn gốc thiên nhiên. Trên nhãn hiệu sản phẩm, nhà sản xuất có quyền chỉ nêu chữ colorant mà thôi, khỏi phải nói rõ tên loại phẩm đó là gì. Một số màu hóa học bị nghi là có thể gây ung thư.

*Các loại enzymes: để dùng như chất xúc tác (catalyseur), chẳng hạn như présure trong fromage và broméline trong beer.

*Các chất làm cho rắn chắc, làm cho giòn: chlorure de calcium trong thực phẩm đóng hộp, sulfate double daluminium et dammonium trong các loại dưa chua.

*Các chất áo bên ngoài (agent de satinage): gomme arabique, silicate de magnésium trong bánh kẹo để cho có vẻ bóng láng hơn.

*Các chất thay thế đường (édulcorant): aspartame, sorbitol.

*Các chất độn (tampon): để làm ổn định độ acide-base (pH) như acide tartrique trong men hóa học, acide citrique trong các loại mứt.

*Các chất bảo quản (agents de conservation): được phân ra làm hai loại:

1- Các chất diệt trùng (antimicrobien): như propionate de calcium trong bánh mì, nitrate, nitrite de sodium & de potassium trong các loại thịt nguội jambon, saucisse…

2- Các chất chống oxy hóa, thí dụ như chất BHA (hydroxyanisole butilé), BHT (hydroxytoluène butilé) thường được thêm vào một số dầu thực vật để cho nó khỏi hôi (rancid). Có tài liệu nói rằng hai chất này có thể gây ra cancer.

*Các chất kềm hãm (sequestrant): giúp ổn định sản phẩm bằng cách phối hợp với các kim loại, thí dụ như EDTA disodique dùng trong các loại mứt để trét bánh mì.

*Các chất làm thay đổi tinh bột: như acide chlorhydrique có tác dụng thủy phân tinh bột đậu nành trong kỹ nghệ sản xuất nước tương và dầu hào.

*Các chất nuôi dưỡng men: sulfate de zinc để sản xuất beer và chlorure dammonium để làm bánh mì.

*Các chất dung môi (solvant): như alcool éthylique trong các phẩm màu.

*Các chất làm cho nhão, cho ổn định và làm cho đặc sệt (gélatinisant, stabilisant, épaississant): như carraghénine trong cà rem và chất mono & diglycéride trong các loại fromage lỏng.

Chất phụ gia ảnh hưởng thế nào trên sức khỏe?

Đây là một vấn đề phức tạp. Nhiều nhà khoa học cũng như nhiều phe nhóm đang tranh luận gây go về sự an toàn của các chất phụ gia. Nên nhớ vì quyền lợi, giới kỹ nghệ cổ võ rất mạnh mẽ việc sử dụng hóa chất và họ thường tài trợ cho các đại học để thực hiện những công trình khảo cứu có lợi cho sản xuất...

Nói chung, thì các triệu chứng thường thấy thuộc vào loại phản ứng dị ứng như ngứa ngáy, da nổi đỏ, nhức đầu, đau bụng, nôn mửa, chóng mặt, khó thở, v.v…Điều mà mọi người lo ngại nhất là đối với một số chất phụ gia, nếu ăn nhiều và ăn thường xuyên trong thời gian lâu dài, thì nó có thể gây ra cancer.

Nhưng nhiều là bao nhiêu, lâu là mấy năm? Không ai có thể trả lời chính xác được!

Cũng may là có một số tổ chức tư nhân ý thức được hiểm họa của một số chất phụ gia xét ra quá nguy hiểm cho sức khỏe, nên họ đã không ngừng báo động, cảnh giác dân chúng, đồng thời làm áp lực với chánh phủ để giới hạn việc sử dụng những số chất nầy. Sau đây là một vài thí dụ:

- Nhóm sulfite (bisulfite de potassium, sulfite de sodium, dithionite de sodium, acide sulfureux): có thể gây khó thở…Những người bị hen suyễn không nên ăn thực phẩm có chứa sulfite...Sulfite giúp thức ăn và thức uống có màu tươi thắm hơn.

Sulfite được trộn trong rau quả, quả khô (như nho khô) hoặc đông lạnh. Các loại nước giải khát, nước nho và rượu chát đều có chứa sulfite.

Sulfite cũng có thể được trộn trong các loại đường dùng làm bánh mứt, trong tôm tép đóng hộp cho nó có vẻ tươi hơn và cũng tìm thấy trong các loại tomato sauce và tomato paste.

Từ năm 1987, Canada đã cấm nhà sản xuất trộn sulfite trong các loại salade ăn sống, ngoại trừ nho khô.

- Nhóm nitrite và nitrate (de sodium, de potassium): Chúng ta thường gọi là muối diêm...Rất phổ thông để muối ướp thịt. Các chất này tỏ ra rất hữu hiệu trong việc ngăn cản sự phát triển hoặc để diệt vi khuẩn, đặc biệt là vi khuẩn clostridium botulinum trong đồ hộp.

Ngoài tác dụng giúp sự bảo quản được tốt, nitrite và nitrate còn tạo cho thịt có màu hồng thắm rất là hấp dẫn. Thịt nguội, jambon, saucisse, lạp xưỡng, smoked meat, hot dog, bacon, nem, v.v… đều có chứa nitrite và nitrate.

Vấn đề lo ngại nhất là hai chất nầy sẽ chuyển ra thành chất nitrosamine lúc chiên nướng. Nitrosamine là chất gây cancer. Hàm lượng nitrite và nitrate cho phép sử dụng trong thịt được cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm Canada (CFIA) quy định rõ rệt.

Ngoài ra còn phải kể đến chất sodium erythorbate(E 316) cũng thường được dùng trong thịt nguội, hot dog, nem…Đây là một chất chống oxyt hóa giúp ổn định hương vị cũng như giúp vào việc giữ cho màu hồng thắm của sản phẩm chậm phai mờ.

- Bột ngọt (MSG, monosodium glutamate): giúp làm tăng hương vị của sản phẩm, làm nó «ngọt» và ngon hơn! MSG được tổng hợp từ chất đạm của thịt, cá, sữa và từ một số thực vật. Người ta gán cho bột ngọt là thủ phạm của hội chứng Cao lâu hay nhà hàng Tàu (Syndrome du restaurant chinois), nhưng thực tế lại cho thấy là bất kỳ nhà hàng Ta, Tây, hay nhà hàng Tàu đều có dùng bột ngọt hết!!

Có người không hạp với bột ngọt nên cảm thấy khó chịu trong người, chóng mặt, nhức đầu, khô miệng, khát nước, nóng ran ở mặt, sau ót và ở hai cánh tay. Đôi khi có cảm giác đau ở ngực và muốn nôn mửa...Tuy nhiên, các triệu chứng trên chỉ là tạm thời và lần lần biến mất trong một thời gian ngắn mà thôi. Riêng cá nhân người gõ, mỗi lần đi ăn phở hay ăn Dim Sum thì sau đó bị khô cổ cả buổi vì bột ngọt.

Tin đồn ăn nhiều bột ngọt MSG sẽ bị béo phì là không đúng sự thật.

Tại Canada, luật lệ bắt buộc nhà sản xuất phải nêu rõ chất MSG trên nhãn hiệu của sản phẩm.

- Aspartame (Equal, Nutrasweet): là đường hóa học có vị ngọt gấp cả 200 lần hơn đường thường...Aspartame được sử dụng rộng rãi khắp thế giới trong bánh kẹo, yogurt và trong các thức uống ít nhiệt năng như Coke diète, Pepsi diète, v.v…

Có người không hạp với chất aspartame nên có thể bị đau bụng, chóng mặt, nhức đầu, v.v…Dư luận còn đồn rằng aspartame có thể gây cancer não, nhưng tin này đã bị FDA và giới y khoa bác bỏ! Trong cơ thể, aspartame được phân cắt ra thành acide aspartique và phénylalanine.

Đối với ai có bệnh PKU (phenylketonuria), là một loại bệnh rất hiếm, do sự lệch lạc của một gène khiến cơ thể không tạo ra được enzyme để khử bỏ chất phénylalanine. Chất sau này sẽ tăng lên nhiều trong máu và làm tổn hại đến hệ thần kinh trung ương. Để cho bệnh lý nầy có thể xảy ra được thì cần phải ăn một lượng aspartame thật lớn.

Tại Canada các chất nào bị cấm thêm vào trong thực phẩm?

Theo tài liệu của Bộ Canh Nông và Thực Phẩm Canada (Agriculture et AgroAlimentaire Canada):

*Annex B: Aliments et substances interdits

Ne peuvent être ajoutés aux aliments ou vendre comme ingrédients alimentaires:

- Huile végétale bromée, acide salicylique, acide borique, borax (hàn the).
- Iodate de calcium, iodate de potassium.
- Nitrofurazone, chlorate de potassium.
- Formaldéhyde, formol et paraformaldéhyde.
- Coumarine, 1,2-benzopyrone, lactone.
- Dihydrocoumariné- Méthanol, alcool méthylique.
- Diéthylèneglycol, diglycol, 2,2 oxybis-éthanol ou 2,2- oxydiéthanol.
- Dulcine, acidecyclamique et ses sels (excepté cyclamate de sodium).
- AF-2 (furfurylfuramide).
- Bromate de potassium.
- Daminozide.
- Stévia (cây cỏ ngọt) et ses dérivés.
an_gi_cung_chet_cho_pho_tau_resized
Ăn gì cũng cơ nguy ngộ độc.
Chuyện nông dược (pesticide)

Theo nghĩa rộng rãi, đây là những hóa chất dùng để bảo vệ mùa màng, hoa màu, để giúp cải thiện chất lượng, gia tăng năng suất cũng như để bảo quản tốt nông sản thu hoạch sau mỗi vụ mùa. Nhiệm vụ của nông dược vừa đa năng và cũng vừa đa dạng.

Nông dược có thể ở dưới dạng bột, dạng hạt, hoặc dạng lỏng. Nó có thể được rải từ trên phi cơ xuống những cánh đồng bát ngát đậu nành. Người ta cũng có thể sử dụng những xe tracteur, hoặc xe tải nhỏ có trang bị những bồn chứa đặc biệt để phun xịt thuốc trừ sâu lên những hàng cây xum xê trái, hoặc lên những luống rau cải thẳng tấp dài bất tận. Đơn giản hơn thì hóa chất được xịt từ những bình mang bên vai.

Nông dược sử dụng có thể là: thuốc diệt cỏ (herbicide),thuốc khai quang (défoliant), thuốc diệt nấm mốc (fongicide), thuốc diệt chuột bọ (rodenticide), thuốc trừ sâu rầy ( insecticide), thuốc diệt ốc (molluscicide), thuốc diệt vi khuẩn thực vật (bactéricides végétaux ), thuốc điều hòa sự tăng trưởng thực vật (régulateur de croissance) vv…

Về mặt hóa học, nông dược nằm trong những nhóm chính yếu sau đây: Organophosphorés (Diazinon, Malathion, Parathion), Organochlorés (DDT, BHC, Mirex, Aldrin…), và các Composés organosulfurés, organoazotés, Pyréthrine, dérivés de l acide phénoxyacétique, vv…

Tất cả đều rất độc cho sức khỏe chúng ta. Lúc sử dụng, cần phải mang mặt nạ che mắt, che mũi,và bận quần áo thật kín để thuốc khỏi nhiễm vào da.

Nhóm organochlorés, ngày nay ít thấy sử dụng tại các quốc gia Tây phương, nhưng vẩn còn được xài tại các xứ đang phát triển.

Chất DDT, rất thông dụng trên thế giới từ mấy chục năm, nay đã bị cấm sử dụng tại Âu Mỹ . Để thay thế người ta có khuynh hướng chuộng các loại nông dược nhóm organophosphorés.

Trong cuộc chiến vừa qua ở quê hương Việt Nam, chắc không ai mà lại không nghe nói đến một loại thuốc khai quang mà quân lực Hoa Kỳ đã sử dụng. Người ta thường gọi đó là thuốc khai quang màu da cam hay Agent orange 2,4-D. Đây là một hổn hộp 50:50 của hai thứ thuốc diệt cỏ cực mạnh thuộc nhóm phenoxy acetic acid. Trong quá trình sản xuất, 1 trong 2 loại thuốc trên tạo ra chất dioxine, là một chất độc cực kỳ nguy hiểm vì nó có thể gây ung thư hoặc tạo ra quái thai.

Tại Canada, loại rau quả nào thường bị nhiễm nhiều nhứt?

Tạp chí Protegez vous, số tháng 2 năm 2002 có cho thực hiện một cuộc xét nghiệm thăm dò về mức độ nhiễm hóa chất của một số rau quả thông thường bán tại Quebec.

Có tất cã 75 mẩu rau quả đã được kiễm soát, gồm có: céléri, fraise, laitue, cam, pêche, poire, poivron và pomme. Trong số nầy, 26 mẩu có sự hiện diện của chất tồn dư (residu) nông dược, nhưng cũng may đa số đều ở dưới mức quy định của chính phủ, ba mẩu có chứa cùng một lúc nhiều loại nông dược khác nhau, và cuối cùng chỉ có hai mẩu là vượt quá giới hạn cho phép mà thôi.

Pomme là sản phẩm bị nhiểm nông dược nhiều nhứt, nhưng cũng may là mức độ nhiễm thường nằm trong giới hạn được cho phép.

Trái cây nhập cảng bị nhiễm nhiều hơn trái cây sản xuất tại Canada.

Tại sao phải xịt một màng sáp lên rau quả?


Phần lớn rau quả mua tại các chợ Canada đều được xịt phủ lên một màng sáp để giử nước và giúp chúng chậm héo và vẩn giử vẽ tươi tốt trong một thời gian dài.

Cà tím, dưa leo, avocados, cantaloupe, pomme, poire, pêche, melon, nectarine, cam, chanh, bưởi, hồng tươi, v.v… đều bị xịt sáp. Chất sáp sử dụng được lấy từ sáp ong, từ một vài loại thực vật hoặc là từ dầu paraffine.

Để cho lớp sáp phủ được đều lên rau quả, kỹ nghệ cho trộn thêm chất morpholine. Chất nầy tự nó không nguy hiểm, nhưng trong cơ thể morpholine sẽ tác động với nitrate để cho ra chất N-nitrosomorpholine, và chất này cho thấy đã gây cancer cho chuột thí nghiệm.

Santé Canada cho biết không có gì đáng ngại cho sức khỏe hết vì morpholine được sử dụng ở một nồng độ rất thấp.

Morpholine còn được tìm thấy trong một số mỹ phẩm, như trong thuốc gội đầu shampoo, trong các dụng cụ bằng cao su, chẳng hạn như trong các núm vú để cho trẻ em ngậm.

Liên âu thì cấm trái cây bị xịt sáp có morpholine.

The European Union is refusing to accept apples treated with a wax containing morpholine or other amines, which means U.S. packers exporting to Europe need to switch to other types of wax or no wax at all.

Các nông dược nhóm organochlorés

Điển hình là các chất DDT, MIREX, ALDRIN, vv… MIREX thường thấy tích tụ trong cá và lươn.

Phần lớn các chất nhóm organochlorés đã bị cấm sử dụng tại các quốc gia Tây Phương và lần lần được thay thế bởi những hoá chất nhóm organophosphorés.

Ngược lai, các quốc gia đang phát triển vẫn còn tiếp tục xài các hoá chất nhóm organochlorés.

Chất tồn dư nhóm organochlorés thường tích tụ trong mỡ của các loài động vật và cả trong sữa bò nữa.

Triệu chứng ngộ độc thường thấy là nôn mửa, cơ thể bải hoải, thần kinh rối loạn và co giật, nhưng điều mà mọi người lo sợ nhất là... ung thư.

Nông dược nhóm organophosphorés

Thí dụ như DIAZINON, MALATHION, PARATHION, v.v.... Hoá chất nhóm nầy thường tích tụ nhiều trên các loài thực vật có lá. Nhiễm độc nhẹ sẽ gây rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, tiêu chảy và chóng mặt. Nói chung, hóa chất nhóm organophosphorés rất độc cho hệ thần kinh và có thể làm suy hô hấp.

Nông dược ảnh hưởng thế nào trên sức khỏe?

Tùy thuộc vào loại nông dược và nồng độ sử dụng mà triệu chứng ngộ độc có thể thay đổi khác nhau.

Nông dược xâm nhập vào cơ thể qua nhiều ngõ như tiêu hóa, hô hấp hoặc qua ngõ da. Triệu chứng ngộ độc cấp tính thường là nhức đầu, chóng mặt, choáng váng mặt mày, thở khó, nôn mửa, và có thể bị tiêu chảy hoặc sốt nóng.

Qua hiện tượng tích lủy sinh học, các chất tồn dư nông dược ăn vào mỗi ngày về lâu về dài sẽ ảnh hưởng từ từ đến sức khỏe, gây nên những bệnh mạn tính rất phức tạp.

Chúng có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, hệ miển dịch, hệ nội tiết, hệ sinh dục, làm giảm số lượng tinh trùng, làm biến dổi gene (mutagénique) sinh ra quái thai, và cũng có thể gây ra cancer, chẳng hạn như cancer não, cancer máu (leucémie), và cancer hạch bạch huyết ( lymphome), vv…

Theo Gs Frederick Vom Saal (Univ. de Missouri ) thì không có một nồng độ nào của hóa chất, dù cho thật nhỏ đến đâu, mà lại không gây hại đến sức khỏe.

Có nên lo sợ hay không?

Theo như một số nhà khoa học, thì chúng ta đừng nên lo sợ thái quá, không có ích lợi gì cả. Họ cho biết là cơ thể con người có khả năng tự bảo vệ chống lại sự xâm nhập liên tục của các liều lượng nhỏ hóa chất.

Ngược lại, nhóm bảo vệ môi sinh thì bi quan hơn. Họ không ngừng cảnh giác thế giới và dân chúng về hiểm họa thật sự của nông dược trên môi sinh cũng như trên sức khỏe con người. Theo nhóm nầy,thì những quy định của chính phủ về định mức an toàn của sản phẩm cũng không có mấy gì bảo đảm hết cả. Có thể còn có nhiều loại hóa chất nữa mà chúng ta chưa hề được biết đến, và chúng sẽ tác động lẫn nhau để hại sức khỏe.

Trong các thí nghiệm về ảnh hưởng của các chất tồn dư, người ta thường chỉ chú trọng và xét nghiệm các hoạt chất chính (ingrédients actifs) mà thôi, còn các chất trơ (ingrédients inertes) thì không được màng đến. Thí dụ điển hình là thuốc diệt cỏ nổi tiếng khắp thế giới là Roundup, do Monsanto sản xuất (với thương vụ 1 tỷ $/năm ) có chứa chất nhiễm 1,4-Dioxane, là một chất gây cancer cho chuột thí nghiệm. Dù ăn ít hay dù ăn nhiều, chất tồn dư nông dược sẽ tích tụ lần hồi theo thời gian để đến một lúc nào đó tùy theo cơ thể của mổi người, mà gây ra bệnh.

Các em nhỏ tuổi, phụ nử đang mang thai,và các người nào có sức miển dịch đã bị suy yếu sẳn sẽ là những đối tượng rất dễ bị ảnh hưởng của hóa chất.

Các chất kim loại

CHÌ (Pb): Có thể thấy nhiều trong kỹ nghệ chế biến bình điện, trong các loại thực phẩm đóng hộp, và trong các hệ thống ống dẫn nước bằng chì. Ngộ độc chì sẽ làm đau bụng, mất máu, đi đứng khó khăn và các triệu chứng thần kinh khác.

CADMIUM (Cd): Tìm thấy trong kỹ nghệ khai thác các quặng đồng, chì và kẽm, trong kỹ nghệ mạ kền, kỹ nghệ làm plastique, sản xuất nước sơn, vv...

Nhiễm cadmium lâu ngày, hệ miễn dịch sẽ bị tổn hại, ngoài ra cadmium cũng có thể gây cancer.

Cadmium tích tụ trong tôm, cua, sò, ốc và trong gan thận thú rừng, hươu, nai và caribou.

THỦY-NGÂN (Hg): Dưới dạng methyl mercury (MeHg), là chất phế thải từ các nhà máy làm bột giấy và từ kỹ nghệ khai thác hầm mỏ.

Thủy ngân thường tích tụ trong thịt và trong gan cá.

Trong thiên nhiên, do hiện tượng cá lớn nuốt cá bé cho nên những loại cá nào ở tận cùng dây chuyền thực phẩm là loại cá chứa nhiều thủy ngân nhất.

Cá mập hay cá nhám (shark), cá tuna, cá lưỡi kiếm swordfish, brochet, cá doré, cá king mackerel, cá tile fish là những cá có độ nhiễm thủy ngân nhiều hơn cá hareng. Thủy ngân tích lũy theo thời gian và quyện một cách chặt chẽ vào protéine của cá…

Khác với cá biển, cá sông hồ nội điạ lại thường chứa một tỉ lệ chất ô nhiễm khá cao.

Ở người, triệu chứng nhiễm thủy ngân thay đổi khác nhau tùy theo nồng độ và tùy theo thời gian nhiễm.

Thủy ngân có thể gây độc cho bào thai, cho trẻ em và người lớn. Triệu chứng chính thuộc hệ thần kinh trung ương như cảm giác tê quanh môi, ở các ngón chân và ngón tay rồi lần lần ăn nói khó khăn, mắt và tai kém, mỏi mệt, nhức đầu, bồn chồn, không tập trung tư tưởng được, cơ thể càng ngày càng yếu đi, đi đứng rất ư là khó khăn, và cuối cùng thì hôn mê và chết…

Santé Canada cho phép mức độ nhiễm thủy ngân ở cảc loài thủy sản là 0.5 ppm. Tại Hoa kỳ cơ quan FDA ấn định mức cho phép là 1ppm.

Dioxine

Nguồn ô nhiễm chánh là các nhà máy đốt rác và các chất phế thải. Kỹ nghệ sản xuất các thuốc diệt cỏ nhóm organochlorés cũng làm phát sinh ra dioxine. Trong thiên nhiên, cháy rừng và hoạt động của núi lửa cũng là nguyên nhân của sự ô nhiễm dioxine.

Thuốc khai quang màu da cam 2,4-D được sử dụng tại Việt Nam ngày trước là một trong nhiều nguyên nhân ô nhiễm dioxine tại miền Nam.

Dioxine ít hoà tan trong nước, nhưng lại dễ hoà tan trong mỡ và chất béo…

Ở người, phần lớn ô nhiễm dioxine có nguồn gốc từ việc ăn uống. Dioxine đuợc tìm thấy trong cá, tôm, cua, sò, ốc, trong sữa bò và cả trong trứng gà nữa.

Nhiễm dioxine lâu ngày có thể làm xuất hiện một loại bịnh ngoài da rất độc hại, gọi là chloracné.

Các hệ miễn dịch, nội tiết, sinh dục và thần kinh đều bị tổn hại. Sinh ra quái thai và ung thư là hiểm họa đáng sợ nhất của dioxine.

BPC (Biphényles Polychlorés)

Mặc dù đã bị cấm sử dụng tại Canada từ những năm 80, nhưng BPC vẫn còn là hóa chất thường hay được báo chí nói đến luôn.

BPC đã được dùng trong các vật liệu chống lửa, trong nước sơn, trong mực in và trong những máy biến thế điện (transformateur)…

BPC làm tổn hại hệ miễn dịch và cũng có thể gây ra cancer. BPC được tiết qua sữa mẹ.

Trong dây chuyền thực phẩm, cá là loại nhiễm BPC nhiều nhất và từ đó lây nhiễm cho loài người…

Tập chí Protégez vous ở Quebec, số tháng 2/2002 có báo động là cá Saumon de l'Atlantique đã bị nhiễm độc BPC ở mức độ rất cao. Cá được nuôi dưỡng theo lối công nghiệp trong những bè vĩ đại ven bờ biển Canada vùng Vancouver và Halifax, và được cho ăn toàn thức ăn hỗn hợp làm từ bột cá tạp, bột lông gà, bột bắp, dầu thực vật, và trụ sinh vv... Nhưng không biết vì lẽ gì loại dầu sử dụng đã bị nhiễm BPC nên đã lây nhiễm cho cá nói trên.

Tình hình bên nhà: Ai ăn ráng chịu

Chỉ đơn cử một vài thí dụ mà thôi: ai ăn ráng chịu

1)Xin mời các bạn xem bài Không Thể Tin Gì Và Tin Ai Được Nữa của nhà văn Văn Quang viết từ Sài Gòn-Người Việt Boston)

“-Gạo ngâm bột trắng, cơm nở nhiều gấp đôi
- Vỏ bọc tiếng Anh nhưng bên trong toàn chữ Tàu
- Có chất độc hay không chưa biết
- Ông cục trưởng khuyên dân: Có chất độc vẫn ăn được
- Lại bảo vệ các thứ rau nhiễm độc nhưng… không độc
- Kinh khủng hơn nữa là ép dầu ăn từ lạc và… cao su
- Đến cơm cũng tẩm hóa chất, dầu ăn ép bằng lốp xe
- Làm giả con dấu thú y để bán thịt thối
- Tin cái gì, tin vào ai bây giờ?Đến chuyện “bịa” như thật làm nhiều bà hết hồn
- Phóng viên vẽ rắn thêm chân” (Ngưng trích Văn Quang-Người Việt Boston)

2)“Sát thủ” thực phẩm khô-Theo An Quý – Nguyễn Cẩm-Phụ nữ online

“…Mới đây, Thanh tra Sở Y tế TP.HCM đã đình chỉ hoạt động kinh doanh của chi nhánh Công ty cổ phần sản xuất đầu tư thương mại Thành Lộc (Q.Tân Bình, TP.HCM) vì phát hiện trong sản phẩm ớt tẩm Thành Lộc (loại hũ 50g, ngày sản xuất 2/7/2011, hạn sử dụng 3/7/2012) chứa rhodamine (một chất gây hại cho gan, thận) không được phép sử dụng…

…Ngoài ra, để chống nấm mốc, người ta hay sử dụng chất phụ gia gọi là natri benzoat. Trong “danh mục các chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm” do Bộ Y tế ban hành năm 2001, đối với các sản phẩm thịt, thịt gia cầm, thịt thú ướp muối, sấy khô, xay nhỏ chưa xử lý nhiệt, hàm lượng natri benzoat là 1.000mg/kg, còn đối với thủy sản, sản phẩm thủy sản ướp muối, kể cả nhuyễn thể, giáp xác, da gai, chất bảo quản này chỉ được ở mức 2.000mg/kg.

Theo BS Ký, mặc dù natri benzoat là một chất phụ gia cho phép, nhưng phải xem chất lượng của chất này như thế nào khi sử dụng trong thực phẩm vì chất phụ gia càng tinh khiết, càng đắt tiền. Natri benzoat không tinh khiết thường kèm theo tạp chất và các kim loại này là nguyên nhân gây bệnh mãn tính…

…Ước tính, TP.HCM mỗi năm có hơn 5.000 ca mắc ung thư mới, với 80% do các bệnh nhiễm, chế độ ăn uống (nhiều thực phẩm khô, rượu…) và khói thuốc lá. Theo BS Nguyễn Chấn Hùng, Chủ tịch Hội Ung thư VN, muối gốc nitrat trong các loại thực phẩm muối mặn phơi khô khi kết hợp với các chất dịch trong dạ dày sẽ biến thành nitrosamine. Cơ quan Nghiên cứu quốc tế về ung thư (IARC) xếp nitrosamine là tác nhân gây ung thư nhóm 1. Qua nhiều nghiên cứu tại các quốc gia có thói quen ăn uống giống Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, IARC đã chứng minh, sử dụng thường xuyên những thực phẩm muối mặn, phơi khô, gia vị tẩm… là một trong các nguyên nhân gây bệnh ung thư.(Ngưng trích An Quý- Nguyễn Cẩm/Phụ nữ online)

3): TP.HCM Nhiều mẫu bún nhiễm chất cấm-Theo Diệu Linh-trang Dân Việt

Dân Việt - 7/7 mẫu bún lấy tại TP.HCM đều nhiễm chất cấm Tinopal (chất phát quang làm sáng trắng bún), 2/7 mẫu bún có acid Oxalic (chất cấm sử dụng trong chế biến thực phẩm) và 1/7 mẫu bún có chất bảo quản Natri Benzoat vượt giới hạn cho phép.(Ngưng trích Diệu Linh, Dân Việt).

Canada và thực phẩm nhập từ Việt Nam

Mấy năm gần đây đồng bào mình tại Canada rất lo ngại trước tình hình một số thực phẩm và thủy sản nhập cảng từ Việt Nam đã bị cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm CFIA liệt kê vào danh sách cảnh báo vì đã vi phạm vào nhiều điều khoản đã được ký kết giữa hai quốc gia Canada và Việt Nam:

- sản phẩm không vệ sinh, bao bì nhãn hiệu và lon hộp không đúng quy định, có mùi lạ, thiếu cân, nhiễm khuẩn E.coli-Salmonella-Staphylococcus aureus, có chứa thuốc kháng sinh Chloramphenicol-Nitrofuran-Sulfonamide-Flumequine-Oxolinic acid, sản phẩm có chứa hóa chất lạ như Histamine-Sulphite hoặc hóa chất cấm sử dụng như Malachite Green Leucomalachite Green.

Nên biết là theo danh mục của Bộ thủy Sản VN thì các chất sau đây bị cấm sử dụng trong việc sản xuất kinh doanh thủy sản: Aristolchia, Chloramphenicol, Chloroform, Chlorpromazine, Colchichine, Dimetridazole, Dapsone, Metromidazole, Nitrofuran (bao gồm Furazolidone), Romidazole, Malachite Green, Ipromidazole, Nitroidazole, Clenbuterol, Diethylstilbestrol (DES), Glycopeptides và Trichlorfon (Dipterex).

Tóm tắt danh sách cảnh báo của CFIA tính đến ngày 2007/07/10 (IMPORT ALERT LIST SEARCH RESULTS AS OF 2007/07/10)

*Thực phẩm đóng lon/hộp (Canned)
*Thực phẩm tươi/sống (Fresh or Live)
*Thực phẩm ăn liền (Ready to eat)
*Đông lạnh/Muối/Các loại khác (Frozen/ Salted/Other): Cá tôm, sò ốc, thực phẩm các loại.

Năm 2005, 9% cá tôm VN nhập cảng vào Canada đã bị CFIA xét nghiệm. Kết quả cho thấy, 43% mẫu xét nghiệm có dương tính với chất cấm Malachite Green.

Biết rằng lối 80% thủy sản nhập cảng từ Á châu đều có xuất xứ từ Trung Quốc và Việt Nam.

Mặc dù VN đã chính thức ký kết với Canada nhiều văn kiện về xuất cảng thực phẩm và thủy sản, tuy vậy vẫn còn rất nhiều khiếm khuyết, vi phạm về mặt chất lượng và về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của hàng xuất cảng. Các thông báo trong quá khứ của hai cơ quan FDA Hoa Kỳ và của cơ quan CFIA Canada đã nói lên tính chất nghiêm trọng của vấn đề thực phẩm xuất xứ từ VN.

Vấn đề thực phẩm nhiễm độc, thiếu vệ sinh, nguy hiểm, chứa hóa chất cấm sản xuất từ Trung Quốc và Việt Nam đã bị đồng bào và báo chí trong nước cũng như ở hải ngoại cực lực tố cáo trước dư luận thế giới.

Chính quyền VN đã nhìn nhận vấn đề nhưng tỏ ra bất lực, không đủ khả năng để sửa đổi lề lối làm việc cũng như để quản lý chặt chẽ ngành xuất cảng cá tôm cho phù hợp với yêu cầu và qui cách thương mãi của thế giới.

Nạn tham nhũng, đút lót, bè phái từ trên xuống tới dưới là nguyên nhân chính gây nên tình trạng bê bối hiện nay.

Trung quốc: Tủ ăn của cả thế giới
Chạy trời không khỏi nắng!

Việc tẩy chay không ăn đồ made in China, Produits de Chine liệu có thể giải quyết được vấn đề thực phẩm nhiễm độc không?

Có gì bảo đãm là các sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ, Chili, Brazil, Ecuador… là an toàn hơn không.

Có gì bảo đảm 100% trong lành của sản phẩm mặc dù nó được sản xuất, vô lon, vô hộp tại Canada và Hoa Kỳ nhưng lại sử dụng rau quả nguyên liệu nhập từ Trung Quốc?

Dân Canada ăn đồ Trung Quốc từ lâu mà không biết đó thôi.

Năm 2005 Quebec nhập một khối lượng là 11,3 triệu kg rau quả đông lạnh, đóng hộp conserve hoặc tươi. Sản phẩm được chuyên chở nhiều tuần bằng tàu mà vẫn còn tươi rói.

Năm 2004 chỉ nhập có 5,7 triệu kg. Đây là hàng đông lạnh mà Trung Quốc bán thật rẻ để cung cấp cho nhà hàng, hotel, cantine, cafétéria, bệnh viện, các trung tâm cải huấn và những nơi nuôi dưỡng người già.

Các nhà hàng rất thích và ưa chuộng các sản phẩm Trung Quốc vì nó vừa rẻ và vừa tiện lợi, như đã được gọt vỏ và cắt sẵn rồi.

Vì sản phẩm đòi hỏi quá nhiều khâu biến chế bằng tay, rất tốn kém nên các nhà đầu tư Canada đã không sản xuất nữa.

Từ lâu tại Québec, nấm lon (champignons en conserves) đều được nhập từ Trung Quốc. Dưa chuột ngâm giấm (cornichons marinés) từ Ấn Độ, củ hành Tây, carotte to da láng đều được nhập từ Trung Quốc.

Năm 2007, Québec nhập của Trung Quốc 21 triệu kg củ hành đông lạnh (loại đã được lột vỏ rồi).

Vấn đề nầy hình như ít có ai nghĩ tới.

Mấu chốt của vấn đề

Hàng hóa, thực phẩm Trung Quốc giá quá rẻ. Chánh phủ Canada (CFIA) thiếu nhân viên inspectors, thiếu ngân sách dùng để kiểm soát viểc nhập cảng thực phẩm.(người gõ nghĩ rằng đây cũng là vấn đề chung của các quốc gia Liên Âu và Hoa Kỳ).

Người dân Canada tự hỏi: «liệu ăn vào có an toàn không?». Đôi khi ăn đồ nhập từ Trung Quốc mà cứ tưởng rằng là mình đang ăn đồ sản xuất tại Canada.

Tại Canada, luật cho phép nhà sản xuất thực phẩm biến chế ghi trên nhản hiệu sản phẩm câu Product of Canada, hay Made in Canada nếu phí tổn sản xuất chiếm trên 51%, tức là giá vốn mua nguyên liệu từ Trung Quốc phải dưới 49%.

Năm 2006: 10 món hàng made in China dẫn đầu về khối lượng nhập cảng vào Canada

The top 10 foods in volume Canada imported from China in 2006 (in millions of kilograms).

- Mandarins, clementines (Quýt…) and similar citrus hybrids, fresh/dried: 33.9
- Frozen fish fillets (filet cá đông lạnh): 24.4
- Apple juice (nước táo): 21.7 (millions of litres)
- Pears and quinces, fresh (lê và đào tươi): 13.6
- Raw peanuts (đậu phọng sống): 10.6
- Frozen shrimps and prawns ( tép, tôm đông lạnh): 10.4
- Pasta (mì): 10.3
- Mushrooms (nấm): 8.9
- Other citrus fruits (các loại cam chanh khác): 8.8
- Shrimps and prawns, prepared or preserved (tép, tôm biến chế): 7.3

SOURCE: STATISTICS CANADA
Buy America, Buy Canada?

Liệu bạn có sẵn sàng chịu chi giá mắc để mua sản phẩm Canada không? (Buy America, Buy Canada)?

Càng nghĩ đến thì càng lo, nhưng có hơi lạ là người mình có tật hay mau quên.

Miệng thì nói đồ Trung Quốc ăn độc, thế nầy thế nọ, nhưng…

Thôi thì ráng tránh, ráng hạn chế bớt được chừng nào thì tốt chừng đó. Chừng nào bệnh chừng nào chết thì cứ đổ thừa đại là tại cái số.

Chạy Trời không khỏi nắng đúng với câu “Chúa tạo ra thế giới, phần còn lại là Made in China.”

Tình hình chung tại Canada

Nói chung, cũng may là đa số hóa chất gây nhiễm trong thực phẩm thường nằm dưới giới hạn quy định của Santé Canada.(Lời nói của chánh phủ).

Sống trong một đất nước quá ư tiên tiến và kỹ nghệ thì vấn đề ô nhiễm môi sinh ắt khó tránh khỏi được.

Đây là vấn đề làm nhiều người trong chúng ta thường hay lo nghĩ đến. Tuy nhiên, để hạn chế bớt tác dụng độc hại của một số hóa chất trên sức khỏe, chúng ta cần nên lưu ý đến các điểm sau đây:

Độ nhiễm cũng thay đổi tùy theo từng vùng, có gần các khu kỹ nghệ hay không? Sông, rạch, ao hồ nội điạ nhiễm nhiều hơn vùng đại dương.

Đồ lòng, gan, thận thú rừng, hươu, nai chứa nhiều chất kim loại như Cadmium.

Mỡ và da cá là nơi tích tụ nhiều BPC và Dioxine.

Để tránh hiện tượng tích lũy độc chất, nên thường xuyên thay đổi loại cá ăn.

Tại Bắc Mỹ, phụ nữ đang mang thai hoặc đang cho con bú cần nên hết sức thận trọng, tốt hơn hết là tránh dùng các loại cá như cá nhám (cá mập), cá lưỡi kiếm (swordfish), cá tuna, king mackerel, và cá tile fish.

Tất cả thực phẩm sản xuất theo lối công nghiệp đều có chứa hóa chất.

Ăn, rau, cải, trái cây phải rửa kỹ, và phải gọt bỏ vỏ.

Cách nấu nướng, như nướng chiên ở nhiệt độ cao, hoặc trực tiếp trên lửa ngọn, thường làm phát sinh ra chất HAAs (heterocyclic aromatic amines), là chất có thể gây ra ung thư.

Kết luận

Dù muốn dù không chúng ta vẫn phải ăn, vẫn phải uống để sống!

Trong một xã hội quá ư là văn minh và quá ư là kỹ nghệ như Bắc Mỹ ngày nay, chúng ta không thể nào thoát ra khỏi quỹ đạo của hóa chất được.

Thôi thì tốt hơn hết là nên cẩn thận trong vấn đề ăn uống, nên điều độ và chừng mực thì tốt hơn!

Hãy cảnh giác và thận trọng đối với các loại thực phẩm (khô, tươi và biến chế) nhập từ Á Đông.

Đừng quên là hấu hết các loại thực phẩm tươi và khô trong các chợ Á Đông đều được made in China.

Hạn chế việc dùng những loại thực phẩm công nghiệp như các loại nước ngọt, các loại đồ hộp, đồ conserve, các loại thịt nguội và thịt hong khói smoked meat, v.v… Tránh bớt chừng nào tốt chừng đó.

Trong Guide alimentaire Canadien pour une Alimentation Saine, Santé Canada đã khuyến cáo mọi người cần nên ăn mổi ngày từ 5- 10 phần rau quả. Một phần tương đưong 1 trái pomme trung bình,hoặc 1 tách rau cải tươi vv…Cẩn thận vẩn là hơn. Nhớ rửa thật kỹ rau cải và trái cây trước khi sử dụng, gỡ bỏ các lớp lá phía bên ngoài ( cải bắp, laitue romaine …), thứ nào gọt vỏ được thì nên gọt như pomme chẳng hạn. Làm như vậy chúng ta mới cảm thấy an tâm và hy vọng hạn chế bớt được vấn đề nhiễm hóa chất.

Vào thế kỷ thứ XVI, Paracelse, một nhà hóa học nổi tiếng và đồng thời cũng là một y sĩ lỗi lạc của Thụy Sĩ đã từng nói một câu để đời như sau: «Cest la dose qui fait le poison», có nghĩa là chính liều lượng làm nên chất độc.

Ngẫm nghĩ lại câu này vẫn còn đúng cho đến ngày hôm nay./.

Đọc thêm

- Le point sur létiquetage des produits alimentaires canadiens (Ottawa 21/5/2008)
http://www.pm.gc.ca/fra/media.asp?id=2112

- Sát thủ thực phẩm khô
http://docac.com/ve-sinh-an-toan/sat-thu-thuc-pham-kho/

- TP.HCM: Nhiều mẫu bún nhiễm chất cấm
http://danviet.vn/20130724015353722p1c31/tphcm-nhieu-mau-bun-nhiem-chat-cam.htm

-- Văn Quang: Không Thể Tin Gì Và Tin Ai Được Nữa
http://nguoivietboston.com/?p=17415

- Bs Thú y Nguyễn Thượng Chánh

*Mặt trái của kỹ nghệ thực phẩm
http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-150095/

*Canada và made in China
http://nguoivietboston.com/?p=10166

*Trung Quốc:Tủ ăn của thế giới
http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-181684/

*Canada và thực phẩm nhập cảng từ VN
http://www.advite.com/CanadavathucphamtuVN.htm

- Vi Anh: TC lại đồ ăn độc nữa
http://vietbao.com/D_1-2_2-66_4-210849_15-2/

- TS Mai Thanh Truyết: Tôm Cá… Việt Nam
http://nguoivietboston.com/?p=17431

- TS Trần Đăng Hồng. Sản phẩm từ Trung Quốc
http://www.trandang.net/Default.aspx?g=posts&m=3315

- TS Bùi Thế Trường. Dùng thực phẩm được bảo quản bằng “Thuốc ướp xác chết” có sao không?
http://khoahocnet.com/2012/12/01/bui-the-truong-dung-thuc-pham-duoc-bao-quan-bang-thuoc-uop-xac-chet-co-sao-khong/

Montreal, Aug 2013

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi ngày, cơ thể chúng ta đều đối mặt với rất nhiều kẻ xâm nhập tiềm ẩn, đặc biệt là trong mùa lạnh và ở những vùng khí hậu lạnh. Những vi sinh vật này, được gọi là các tác nhân gây bệnh (hay mầm bệnh), xuất hiện dưới nhiều hình thức như vi-rút, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm. Hệ thống miễn dịch của cơ thể thiết lập nhiều tuyến phòng thủ để chống lại chúng. Và đây là cách hệ thống đa tầng này hoạt động.
Vào ngày Chủ Nhật 7 tháng 12 2023, tại Trung Tâm Thực Hành Chánh Niệm Nam Cali (MPC), Tiến Sĩ Giáo Dục Bạch Xuân Phẻ đã có buổi chia sẻ về cách hướng dẫn cho các em tuổi teen thực hành chánh niệm. Cùng tham dự buổi chia sẻ còn có chị Chơn Nguyên, y tá của Học Khu Centralia (Buena Park), huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, nhiều bậc phụ huynh có con em đang ở tuổi teen, tăng thân Xóm Dừa, Nụ Hồng…
Thuốc diệt siêu vi (Antiviral drugs) thường được coi là một phát minh của thế kỷ 20. Nhưng một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một điều bất ngờ trong hệ thống miễn dịch của chúng ta: Nó có thể tự mình tổng hợp các phân tử diệt siêu vi (antiviral) để phản ứng chống lại sự lây nhiễm của vi rút. Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về một loại protein tạo ra các phân tử diệt siêu vi tự nhiên. Khác xa với phát minh hiện đại của nhân loại, tự nhiên đã tiến hóa các tế bào tiến hóa để tạo ra “loại thuốc” của riêng chúng – biện pháp phòng vệ xa xưa nhất để chống lại virus.
Trí tuệ nhân tạo / AI (Artificial Intelligence) gần đây được nhắc đến rất nhiều không những trong giới công nghệ máy tính mà cả trong các môi trường chính trị, kinh tế, xã hội vì tác dụng tiềm năng của nó trên mọi lãnh vực của đời sống con người. Riêng trong lãnh vực y học, AI đã và đang có những bước tiến đáng kể. AI đang được sử dụng để cải thiện kết quả của bệnh nhân, giảm chi phí và tăng hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe, có khả năng cách mạng hóa y học bằng cách cung cấp các chẩn đoán chính xác hơn, kế hoạch điều trị cá nhân hóa và cải thiện việc chăm sóc bệnh nhân.
Cũng giống như một cuốn từ điển vật lý, ‘cuốn từ điển’ trong đầu của chúng ta cũng chứa thông tin về các từ, bao gồm các chữ cái, âm thanh và ý nghĩa hoặc ngữ nghĩa của từ, cũng như thông tin về các thành phần câu cú và cách ghép các từ lại với nhau để tạo thành các câu đúng ngữ pháp. ‘Cuốn từ điển’ đó còn là một cuốn từ điển các từ ngữ đồng nghĩa. Nó có thể giúp chúng ta kết nối các từ ngữ và xem chúng giống nhau về ý nghĩa, âm thanh hoặc chính tả như thế nào.
Vừa mới mua một thùng raspberry hôm qua, mà hôm nay chúng bắt đầu trông hơi…mốc lên rồi. Mà mang bỏ hết thì tiếc đứt ruột – hay là chỉ lấy những trái bị mốc bỏ ra là được? Không ít người sẽ quyết định như vậy. Tưởng chừng như vô hại, nhưng nấm mốc trên thực phẩm có thể gây ra nhiều vấn đề, từ chứng khó tiêu cho đến những tình huống nghiêm trọng nhất như tổn thương thận hoặc thậm chí là ung thư.
Các cơ quan y tế Trung Quốc tuần qua cho biết họ chưa phát hiện bất kỳ mầm bệnh bất thường hoặc chủng vi-rút mới nào sau khi Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) yêu cầu cung cấp thông tin về các đợt bùng phát bịnh hô hấp. WHO đã yêu cầu Trung Quốc cung cấp thêm thông tin chi tiết sau khi các tổ chức như Program for Monitoring Emerging Diseases (ProMED) báo cáo về các trường hợp viêm phổi chưa được chẩn đoán ở trẻ em ở miền bắc Trung Quốc.
Nghệ (turmeric) là một loài thực vật có hoa thuộc họ gừng. Từ lâu, nghệ đã được đánh giá cao trong nền y khoa cổ Ayurvedic ở Ấn Độ nhờ đặc tính chống viêm. Với ẩm thực Châu Á, nghệ cũng được ưa thích bởi hương vị và màu sắc của nó. Trong tiếng Hindi, nghệ được gọi là Haldi, có nguồn gốc từ tiếng Phạn có nghĩa là “màu vàng.” Nhưng đối với hàng triệu người Nam Á thường xuyên sử dụng nghệ, màu vàng rực rỡ của nghệ có thể khiến họ mất mạng.
Thời gian Mở Ghi Danh Medicare (Open Enrollment) đang diễn ra. Chúng tôi đã chọn một số câu hỏi về chủ đề này và muốn chia sẻ thông tin trong chuyên mục của tháng này. Chúng tôi đã thêm một câu hỏi để giải quyết rõ ràng hơn những lĩnh vực mà nhiều người còn nhầm lẫn về vắc xin ngừa COVID-19. Nếu quý vị có thêm câu hỏi về Medicare, Medicaid, thị trường bảo hiểm Y tế theo đạo luật chăm sóc giá cả phải chăng, phúc lợi hưu trí an sinh xã hội, thu nhập an sinh bổ sung hoặc tiêm chủng ngừa COVID/cúm, quý vị có thể liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay bằng 3 cách:
Mua thuốc bậy bạ không nguồn gốc là một trò xui rủi. Từ Xanax đến cocaine, thuốc hoặc thuốc giả được mua ở những nơi không phải cơ sở y tế có thể chứa liều lượng fentanyl nguy hiểm cho tính mạng. Các bác sĩ đã chứng kiến sự gia tăng sử dụng fentanyl không cố ý từ những người mua các loại thuốc theo toa thuộc nhóm opioid và các loại thuốc khác có chứa hoặc pha, trộn fentanyl. Người ta nhận thấy Fentanyl đã được đưa vào nguồn cung cấp thuốc heroin ở Massachusetts. Vào năm 2016, Giáo sư Kavita Babu và các đồng nghiệp phát hiện ra rằng những bệnh nhân đến khoa cấp cứu với báo cáo sử dụng quá liều heroin thường có fentanyl trong kết quả xét nghiệm mẫu thuốc của họ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.