Hôm nay,  

Sữa Chua Yogurt Rất Bổ Dưỡng

13/12/201200:00:00(Xem: 12149)
Yogurt hay sữa chua lên men là một loại thực phẩm rất phổ thông.

Đây là một loại thức ăn ngon miệng đồng thời cũng là một thực phẩm chức năng đầy tính bổ dưỡng.

Yogurt được làm từ sữa cho lên men bởi những loại vi khuẩn tốt, mà người ta gọi là Probiotics.

Vậy Probiotics (“trợ sinh”?) Prebiotics (tiền trợ sinh) và Synbiotics (hợp sinh?) là những chất gì?

Những vi khuẩn đồng minh của chúng ta

Biết rằng hệ tiêu hóa của con người chứa thường trực trên 400 loại vi khuẩn khác nhau với tổng số trên 100 000 tỉ vi khuẩn.

Đây là những vi khuẩn có ích cho cơ thể. Chúng tạo thành hệ vi sinh đường ruột (intestinal flora).

Các vi khuẩn nầy giúp ích trong việc làm lên men vài loại glucid như chất cellulose mà cơ thể không hấp thụ được. Cellulose là một chất trong các loài thực vật.

Ngoài ra, hệ vi sinh cũng dự phần trong việc tổng hợp các vitamins nhóm B và hầu hết vitamin K mà gan rất cần đến.

Khi thế quân bình của hệ vi sinh bị lệch đi, ruột có thể bị cảm nhiễm và bệnh sẽ xuất hiện ra.

Nói tóm lại, hệ vi sinh đường ruột rất cần thiết cho việc tiêu hoá, hấp thụ dưỡng chất (nutriments) cũng như sự thải bỏ những cặn bã độc hại.
yaourt_cay_cuc_vu
Củ cúc vu Topinambour hơi giống củ gừng (Photo NTC 2012)
Probiotics là gì?

Đây là những vi khuẩn tốt, có ích lợi cho sức khỏe chúng ta. Chúng thường được thấy hiện diện trong đường tiêu hóa và ngay cả trong âm hộ. Sự hiện diện của probiotics giúp ngăn chặn tác hại của các vi khuẩn xấu (pathogens) xâm nhập vào ruột.

Có nhiều loại vi sinh vật được sữ dụng như Probiotics, đó là vi khuẩn nhóm lactic (bactéries lactiques) như Bifidobacterium và Lactobacillus trích từ hệ vi sinh đường ruột hoặc là một vài loại men (levure).

Thí dụ điển hình về probiotics là vi khuẩn Bifidobacterium và vi khuẩn Lactobacillus trích từ hệ vi sinh đường ruột.Các loại vi khuẩn nầy có khả năng tạo ra lactic acid khi chúng phân hủy đường lactose.

Hai loại vi khuẩn nầy từ lâu đã được Nhật Bản và Âu Châu sử dụng trong kỹ nghệ sản xuất sữa chua lên men.

Tại Hoa Kỳ, trên 60% yogurt có chứa Bifidobacterium và Lactobacillus.

Trong kỹ nghệ yogurt, các probiotics sau đây thường được thấy sử dụng: Bifidobacterium bifidum, Bifidobacterium breve, Bifidobacterium infantis, Bifidobacterium longum, Lactobacillus acidophilus và Lactobacillus casei.

Muốn được hiệu nghiệm, probiotics cần phải là vi khuẩn sống.

Để đạt kết quả tốt, phải cần ít nhất một tỉ vi khuẩn sử dụng như Probiotics mỗi ngày vì những vi khuẩn nầy chỉ ở tạm trong ruột mà thôi.

Trở ngại thường gặp là acid của dịch vị tiêu hóa có thể hủy diệt lối 90% probiotics ăn vào. Để bù đấp sự mất mát nầy mà chúng ta cần tiêu thụ một số lượng probiotics thật lớn.

Chúng ta cũng có thể uống những viên thuốc probiotics có áo bọc bên ngoài để chỉ tan ra lúc vào đến ruột mà thôi.

Nên uống Probiotics lúc bụng tróng,và trường hợp nếu có uống thuốc khác thì phải cách nhau hai giờ.( Julie Véronneau,Pharm)

Tại Canada, luật lệ về bao bì nhãn hiệu quy định sản phẩm probiotics cần phải được ghi chú rõ rệt về nồng độ vi khuẩn sống (active) hay U.F.C (unités formatrices de colonies) cho mỗi gram sản phẩm.

Prebiotics là gì?

Đây là những thức ăn của Probiotics. Nói rõ hơn là những chất bột đường glucide không tiêu hóa dược và vẫn còn nguyên vẹn khi vào đến ruột già (colon). Tại nơi đây chúng kích thích sự hoạt động của probiotics dặc biệt là nhóm Bifidobacterium.

Prebiotic giúp vào việc cải thiện hệ miễn dịch, giúp hấp thụ chất calcium, và có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện của một vài loại cancer nữa.

Prebiotic có thể hiện diện một cách tự nhiên trong một số thực phẩm,chẳng hạn như củ hành, rau diếp xoắn chicory, củ cây cúc vu topinambour (helianthus tuberosis) và artichaut

Cây cúc vu (danh pháp khoa học: Helianthus tuberosus L.), là một loài thực vật có hoa, có nguồn gốc Bắc Mỹ và được trồng trong khu vực ôn đới để lấy phần thân củ mà người Việt quen gọi là củ dùng làm rau ăn củ.(wikipedia).

Topinambour là thực vật bà con với artichaut. Củ topinambour rất giàu Inuline, một chất bột đường glucide, có ích trong việc giúp vi khuẩn bifidobacterium phát triển mạnh trong ruột. Đồng thời cũng chứa nhiều chất sắt, potassium, vitamins B1, B5 và phosphore

Rất tốt để giúp cải thiện bệnh tiểu đường type II và tình trạng mỡ cao trong máu.

Thấy bán trong gian hàng rau quả của siêu thị và các chợ Á Đông. Ăn sống hơi dòn nhưng không cai nòng như củ cải trắng daikon. Làm món gì cũng được: ngâm chua,, làm gỏi, nấu canh, xào… Giá hơi đắt.

Le Figaro fr.- Que contient le topinambour? (còn có tên là Jerusalem artichoke)
http://sante.lefigaro.fr/mieux-etre/nutrition-aliments/topinambour

Một khảo cứu trên chuột của Unversité catholique de Louvain (2011) cho biết prebiotic tác động vào hệ vi sinh đường ruột và mệnh lệnh đuợc truyền lên não để kiểm soát sự nhạy cảm của hormon leptin. Hormon nầy giúp ích trong việc thu nạp và sử dụng năng lượng trong tế bào và kiểm soát sự đói bụng appetite.

Kết quả thí nghiệm trên cho biết prebiotic trong thức ăn rất tốt để giúp kiểm soát hiện tượng béo phì và bệnh tiểu đường type II.

Synbiotic là gì?

Một vài loại sản phẩm có chứa đồng thời vừa probiotic và vừa prebiotic, người ta gọi chúng là những Synbiotics.

Đôi khi nhà sản xuất cho trộn thêm vào yogurt những chất fructo oligosaccharides trích từ Inuline (là một glucide) của Rau diếp Xoắn Chicorée (Chicory, wild succory). Chất thêm vào nầy được gọi là Prebiotic và có công dụng giúp cho probiotics tăng trưởng mạnh hơn.

The green variety is the most common. Radicchio is a red-leafed Italian variety of chicory

Thí dụ điển hình tại Canada, sản phẩm sữa Additio de Nutrimor có chứa bốn loại vi khuẩn gốc lactic (Bifidobacteriumlactis BB-12, Lactobacillus acidophilus LA-5, Lactobacillus bulgaricus, Streptococcus thermophilus) và Inuline là một prebiotic. Sữa hiệu Vitalité de Lactantia có chứa Inuline (4gr/250ml).


Lactantia Vitalité* contains the soluble prebiotic fibre, inulin, which is sourced from the Chicory plant. Its a natural fibre which is undetectable in the flavour and texture of milk.

Nước trái cây hiệu Tradition Vision Santé chứa 2g/250ml, và đồng thời cũng chứa 3 tỉ probiotics.

Các thí nghiệm cho thấy, mỗi ngày tiêu thụ 4g prebiotic là đũ nhu cầu rồi. Còn nếu tiêu thụ trên20 gr sẽ bị bị đau bụng và trướng hơi bụng.

Probiotics có ích lợi gì cho sức khỏe?

Theo giới thuốc thiên nhiên, kỹ nghệ sữa cũng như ý kiến của một số nhà dinh dưỡng thì yogurt là một thực phẩm chức năng (functional food) rất tốt cho sức khỏe.

Probiotics có thể đem đến cho cơ thể những lợi ích sau đây:

*-Cải thiện sự quân bình của hệ vi sinh đường ruột bằn cách làm gia tăng sự hiện diện của vi khuẩn tốt trên số lượng vi khuẩn xấu (như E coli, Salmonella)

*-Ngăn chặn sự xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh bằng cách cản chúng bám vào thành ruột.

*-Giúp cho việc tiêu hóa thức ăn được hữu hiệu hơn. Cải thiện sự hấp thụ dưỡng chất. Dễ đi cầu.

Đối với những người thường bị chứng bất dung nạp đường lactose (intolérance au lactose) thì probiotics sẽ giúp chất đường nầy được tiêu hóa dễ dàng hơn.

*-Giảm nguy cơ bị tiêu chảy do uống quá nhiều thuốc kháng sinh (antibiotic associated diarrhea hay AAD).

*-Điều hoà hệ miễn dịch.

*-Ngừa cancer ruột.

*-Giảm cholesterol trong máu.

*-Giảm thiểu hiện tượng dị ứng.

*-Các thí nghiệm gần đây cho biết probiotics cũng có ít nhiều tác dụng tốt trong việc chữa trị các bệnh viêm ruột gây tiêu chảy do virus và do vi khuẩn Clostridium difficile.

Có quảng cáo còn đi xa hơn nữa, như cho rằng…probiotics giúp vào việc quân bình của các hormones, ngừa viêm đường tiết niệu và viêm âm hộ, ngăn ngừa chứng loãng xương, ngăn chặn tác dụng độc hại của tia phóng xạ và của các kim loại nặng, ngừa chứng hôi miệng và giảm stress, v.v…

Trên đây là những gì kỹ nghệ probiotics đã quảng cáo.

Tại Canada và Hoa Kỳ, probiotics chỉ được xếp vào loại thực phẩm bổ sung (dietary supplement) mà thôi..

Ở dạng bột và dạng viên, probiotics phải chịu sự chi phối của cơ quan FDA thông qua luật Dietary Supplement Health and Education Act Standards...

Trường hợp dùng để làm lên men yogurt, kefir (cũng là nột loại sữa lên men) thì probiotics được xem như nằm trong thành phần bình thường của sản phẩm...

Trường hợp kỹ nghệ muốn sử dụng một loại vi khuẩn nào đó như một probiotic để thêm vào sản phẩm, vi khuẩn nầy cần phải được FDA xét duyệt và công nhận là nằm trong nhóm vi khuẩn an toàn gọi là GRAS (Generally Recognized as Safe).

Vấn đề probiotics còn rất phức tạp và chưa rõ rệt cho lắm nên các cơ quan y tế của Canada lẫn Hoa Kỳ chỉ cho phép ghi chú trên món hàng những câu quảng cáo (claims) chung chung như “giúp cho hệ vi sinh đường ruột được tốt” (supports a healthy intestinal flora) mà thôi.

Nên mua loại probiotics nào?

Tốt hơn hết là nên chọn những sản phẩm có chứa những probiotics nào đã từng được nghiên cứu nhiều, như Lactobacillus casei, Lactobacillus rhamnosus…

Nên chọn các vi khuẩn có tính cộng lực với nhau vì mỗi loại vi khuẩn có khuynh hướng tác động tại những nơi chuyên biệt khác nhau chẳng hạn như Lactobacillus có tác động chủ yếu trên ruột non còn loại Bifidobacterium thì tác động trên ruột già.

Tại Quebec, sản phẩm yogurt thường có chứa các loại probiotics như Lactobacillus bulgaricus, Streptococcus thermophilus, Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus casei và Bifidus…

+chọn những viên có áo bọc để tránh bị acid của bao tử làm tổn hại vi khuẩn.

+nên biết là yogurt loại chúng ta thường mua ở siêu thị đều chứa rất ít vi khuẩn.

+nên mua những loại yogurt dùng để trị liệu (yogurt thérapeutique) vì có chứa số lượng lớn vi khuẩn cần thiết. Có thể mua trong các tiệm bán thực phẩm thiên nhiên.

+tránh mua yogurt có pha trộn thêm nhiều loại trái cây.

+tốt nhất nên mua những loại yogurt ferme hoặc nature hay plain.

Số lượng vi khuẩn sống có hoạt tính cũng có thể rất thay đổi tùy theo nhãn hiệu yogurt.

Kết luận

Hiện nay trên thị trường, probiotics cũng như Omega-3 nhờ khéo quảng cáo đã trở thành những mặt hàng đang lên rất mạnh mẽ trên khắp thế giới...

Kỹ nghệ sữa và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên đều hết lời ca tụng probiotics và xem nó như là một thực phẩm bổ sung mang những tính năng phòng trị được rất nhiều bệnh tật.

Ngược lại, phía y khoa thì dè dặt hơn. Họ cũng công nhận rằng probiotics là vi khuẩn tốt cho sức khỏe, nhất là trong việc củng cố hệ vi sinh đường ruột và ngăn chặn bệnh tiêu chảy do việc lạm dụng thuốc kháng sinh gây ra.

Còn đối với các tính năng khác của probiotic thì các bác sĩ khuyên chúng ta cần phải thận trọng dè dặt hơn vì lẽ còn thiếu rất nhiều xét nghiệm lâm sàng cùng các khảo cứu khoa học đáng tin cậy.

Người ta tự hỏi phải chăng cơn sốt probiotics chẳng qua chỉ là một đòn khuyến mãi của kỹ nghệ sữa?

Nhưng dù có nói sao đi nữa, chúng ta phải nhìn nhận rằng yogurt là một thức ăn ngon miệng và rất tốt cho tất cả mọi người bất luận tuổi tác già hay trẻ.

Tại sao chúng ta không dám thử?

Tham khảo:

Julie Veronneau, pharmacienne. Les Probiotiques; Québec Pharmacie Vol. 55 No 11, Dec 2008-Jan 2009

Isabelle Huot, Dre en Nutrition.Prébiotiques et Probiotiques. Bel Âge Magazine , Fev 2008
http://www.lebelage.ca/les_probiotiques_et_les_prebiotiques-complet.php

American Diabetes Association Journal-Responses of gut microbia and glucose and lipid metabolism to prebiotics in genetic obese and diet induced leptin resistant mice
http://diabetes.diabetesjournals.org/content/early/2011/09/19/db11-0227.short?rss=1

Passeport Sante.net. Topinambour
http://www.passeportsante.net/fr/Nutrition/EncyclopedieAliments/Fiche.aspx?doc=topinambour_nu

Montreal, , 2012

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bước tiến lớn tiếp theo trong điều trị ung thư có thể là vắc xin. Sau nhiều thập niên miệt mài làm việc, các khoa học gia cho biết nghiên cứu đã đạt đến một bước ngoặt quan trọng, dự đoán sẽ có thêm nhiều loại vắc xin trong 5 năm tới. Tuy nhiên, đây không phải là những loại vắc xin truyền thống giúp ngăn ngừa bệnh tật, mà là những mũi tiêm để giúp thu nhỏ khối u và ngăn chặn ung thư tái phát. Các phương pháp điều trị thử nghiệm này nhắm mục tiêu vào những loại ung thư như ung thư vú và ung thư phổi, nhưng cũng đã có một số thành tựu đối với ung thư tế bào hắc tố (melanoma) và ung thư tụy tạng được thử nghiệm trong năm nay.
Đa xơ cứng, (Multiple Sclerosis, MS), là một bệnh thần kinh thường bắt đầu ở độ tuổi từ 20 đến 40. Bệnh này phổ biến ở phụ nữ hơn ở nam giới. Bệnh đa xơ cứng xảy ra do hệ thống miễn dịch rối loạn tấn công nhầm vào não và tủy sống. Mặc dù có những điều trị mới và hiệu quả hơn, hầu hết những người bị chứng bệnh này vẫn ngày càng bệnh nặng hơn theo thời gian.
Quý vị có thường bị đau lưng mỗi khi bị cúm, cảm lạnh, hay khi bị COVID? Đau lưng là triệu chứng khá phổ biến ở nhiều loại bệnh. Nó không phải là một triệu chứng kiểu hên xui, mà là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa hệ thống miễn dịch và não, được gọi là “khớp thần kinh miễn dịch” (neuroimmune synapse). Khi ta bị bệnh, kết quả của ‘cuộc trò chuyện’ giữa hệ thống miễn dịch và não bộ khá là thú vị, bởi vì sự chú ý sẽ được tập trung đặc biệt ở vùng lưng dưới. Đây là một trong những vùng nhạy cảm nhất của cơ thể trước các mối đe dọa đối với miễn dịch thần kinh (neuroimmune).
Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, người Việt Nam tạo nên một cộng đồng hải ngoại chừng trên 4 triệu người, tương đương với dân số của New Zealand. Cuộc bùng nổ dân số ra hải ngoại này cũng gây nhiều ly tán, con cái thất lạc cha mẹ. Nhờ các tiến bộ về công nghệ gien và DNA chúng ta được chứng kiến những cuộc tái ngộ, đoàn tụ tưởng như không bao giờ có được, đặc biệt là những người con lai “mồ côi” tìm lại được người cha quân nhân Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam sau gần 50 năm. Chúng ta thử tìm hiểu những tiến bộ về lĩnh vực thử máu hay DNA để thiết lập quan hệ cha-con trên bình diện sinh học.
Mùa thu năm ngoái, số liệu thống kê liên bang cho thấy mức tuổi thọ trung bình của người dân Hoa Kỳ năm 2021 đã giảm hai năm liên tiếp. Dễ thấy rằng nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất là do COVID-19. Đại dịch tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của hơn 1 triệu người ở Hoa Kỳ. Mức tuổi thọ trung bình đã giảm trong hơn hai năm, và giảm gấp đôi ở những người gốc Tây Ban Nha, người gốc da đen và người Mỹ bản địa, khiến đất nước chúng ta thụt lùi lại hai thập niên. Đây cũng là mức giảm tuổi thọ trung bình đột ngột nhất kể từ Thế Chiến II.
Trong tuần này, Đức Giáo Hoàng, Pope Francis đã trải qua một ca phẫu thuật để loại bỏ một khối thoát vị ở vùng bụng khiến ngài đau đớn không thôi. Nó là một khối thoát vị từ vết mổ của các ca phẫu thuật trước đó, được gọi là thoát vị vết mổ (incisional hernia). Thoát vị (Hernia) khá phổ biến và có nhiều loại khác nhau. Không phải tất cả các loại thoát vị đều phải làm phẫu thuật. Vậy thoát vị thực sự là gì? Và nếu cần phải làm phẫu thuật thì thế nào?
Hoa Kỳ đang bước vào mùa bệnh “Lyme”, và nguy cơ lây nhiễm loại bệnh do bọ ve cắn đang gia tăng, đặc biệt là khi có một nửa số người dân hiện đang sống ở những nơi có bọ ve. Nếu không được điều trị bằng kháng sinh kịp thời, bệnh Lyme có thể gây ra các vấn đề về tim mạch và hệ thần kinh, viêm khớp và các biến chứng khác, khó mà chữa trị. Mặc dù nhiều loại vắc xin đang được phát triển, nhưng số ca nhiễm đã đạt đến mức độ nạn dịch ở Hoa Kỳ. Có khoảng 476,000 ca nhiễm Lyme được báo cáo mỗi năm, tiêu tốn khoảng 1 tỷ MK chi phí y tế.
Trầm cảm là một trong những căn bệnh lớn của thời đại. Hơn một phần ba phụ nữ và gần một phần tư đàn ông ở Thụy Điển bị trầm cảm vào một thời điểm nào đó trong đời. Đối với một số người, thì một sự kiện căng thẳng tâm lý nào đó gây ra trầm cảm, ở những người khác, bệnh dường như bùng phát một cách tự nhiên và với một số ít là do tác dụng phụ của thuốc.
Năm 2011, Gert-Jan Oskam đang sống ở Trung Quốc thì bị tai nạn xe máy, khiến ông bị liệt từ phần hông trở xuống. Giờ đây, với sự kết hợp của các máy móc thiết bị hiện đại, các khoa học gia đã giúp ông kiểm soát lại phần thân dưới của mình, theo trang NYTimes đưa tin vào cuối tháng 5 năm 2023.
Ngày 15 tháng 5 năm 2023, Cơ quan Y tế Quốc tế WHO đưa ra hướng dẫn mới nhất của họ về chất làm ngọt thay thế đường (non-sugar sweeteners) và khuyên không nên dùng các chất này để giảm cân. WHO đã tiến hành một cuộc đánh giá có hệ thống với 283 nghiên cứu về chất tạo vị ngọt mà không dùng đường. Nghiên cứu tổng quan này bao gồm cả các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và nghiên cứu quan sát (randomized controlled trials and observational studies).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.