Hôm nay,  

Y Học: Nhân Sâm, Sạn Thận, Tiểu Đường

18/09/200400:00:00(Xem: 6225)
Nhân Sâm Tác Phản Ứng Tương Tác với Thuốc Loãng Máu Warfarin
Bs Chun-Su Yuan tại Trung Tâm Khảo Cứu Dược Thảo Đại Học Chicago, nghiên cứu cho 20 người khỏe mạnh uống 5 mgs thuốc làm loãng máu Warfarin mỗi ngày, cho 3 ngày trong tuần lễ đầu.
Sau đó, cho uống Warfarin trong 3 ngày cho tuần lễ thứ 4.
Khởi đầu tuần lễ thứ 2, cho 12 người uống những viên nhân sâm chứa 2 gms bột nhân sâm trong mỗi viên, hàng ngày. Còn 8 người kia cho uống những viên thuốc giả không chứa nhân sâm.
Kết quả cho thấy trong 2 tuần lễ liên tục uống nhân sâm, lượng warfarin giảm đi trong huyết tương. Và độ loãng của máu cũng giảm đi.
Theo Bs Yuan thì có lẽ nhân sâm tác dụng vào phân hóa tố trong gan, tăng cao biến dưỡng warfarin và đẩy những thành phần chuyển hóa vào máu.
Tác dụng nhân sâm vào thuốc loãng máu có thể tăng cao nguy cơ cơn đau tim-heart attacks hay tai biến mạch máu não-strokes.
Annals of Internal Medicine, July 2004
(Bài nghiên cứu kể trên cho thấy bệnh nhân uống nhân sâm ảnh hưởng độ loãng máu vì thay đổi tác dụng của warfarin.
Kết quả kể trên còn khuyến cáo thêm như phải thận hơn khi dùng dược thảo với những thuốc Âu Mỹ, giống như nhân sâm phản ứng tương tác với thuốc warfarin vậy).
Không phải chỉ có người mập mới bị Nguy Cơ Tiểu Đường
Bs Marie-Pierre St.-Ong cùng các đồng nghiệp thuộc Đại Học Alabama, Birmingham, ấn định hệ số hội chứng biến dưỡng của bệnh nhân không bị mập phì. Đây là kết quả nghiên cứu cho 7602 bệnh nhân dựa theo cuộc kiểm tra về Sức Khỏe và Dinh Dưỡng tại Hoa Kỳ.
Chuẩn định hội chứng biến dưỡng phải có 3 trong số triệu chứng như sau: mỡ triglycerides cao trong máu, Cholesterol tốt thấp trong máu, cao áp huyết máu, đường cao trong máu, và vòng bụng lớn.
Đối với người bình thường và tùy theo chủng tộc, hệ số biến dưỡng thay đổi từ 0.9 tới 3%. Ngược lại, đối với người hơi mập một chút, hệ số biến dưỡng cao hơn, từ 9.6 tới 22.3%. Nguy cơ hội chứng biến dưỡng tăng cao tùy thuộc tùy thuộc cân lượng tăng cao từ bình thường lên “hơi mập phì”. So sánh bênh nhân cân lượng từ “giữa bình thường” lên “trên bình thường” lên hơi mập sẽ có những nguy cơ bị hội chứng mập tăng cao gấp 4.1, lên 4.9 lên 9.1 lần hơn bình thường. Ðối vơí một số phụ nữ mập, chỉ số nguy cơ tăng cao hơn nữa, có thể gấp 4.3, 7.8 và 17.3 lần hơn người bình thường.
Kết quả cho thấy đối vơí những bệnh nhân cân lượng bình thường hay hơi mâp hơn bình thường vẫn có nguy cơ bị hội chứng biến dưỡng, nguy cơ tiểu đường hay bệnh tim mạch. Diabetes Care, September, 2004

(Bàn thêm: Quan niệm trước đây thường cho rằng chỉ những người mập mới có nguy cơ hội chứng biến dưỡng, tức là nguy cơ bị bệnh tiểu đường loại 2 hay nguy cơ bệnh tim mạch. Kết quả đạt được kể trên cho thấy người không mập vẫn có nguy cơ bị hội chứng biến dưỡng, tức là nguy cơ bị bệnh tiểu đường loại 2 hay bệnh tim mạch. Kết quả nghiên cứu kể trên cho thấy phòng ngừa nguy cơ hội chứng biến dưỡng sẽ bắt buộc cho mọi người, mập cũng như cân lượng bình thường, để giảm nguy cơ tiểu đường và nguy cơ bệnh tim mạch. Nhất là những ai có dòng họ di truyền tiểu đường hay tim mạch chẳng hạn, mặc dầu không mập, cũng phải thận trọng hơn trong việc đề phòng những nguy cơ kể trên).
Uống Nhiều Caffeine Gây Nguy Cơ Sạn Thận
Hai bác sĩ Linda K. Massey và Roger A.L. Sutter thuộc Đại Học Bribish Columbia, Gia Nã Đại, cho 39 bệnh sạn thận và 9 người không bị sạn thận uống caffeine hòa vào nước, sau khi nhịn đói 14 giờ.
Thử nước tiểu cho tất cả bệnh nhân 2 giờ trước và sau khi uống caffeine. Sau khi uống caffeine, nước tiểu chứa nhiều những chất calcium, sodium, magnesium và citrate. Những khoáng chất kể trên là những thành phần cấu tạo sạn thận.
Lượng caffeine cho bệnh nhân tương đương với lượng caffeine trong 2 ly cà-phê.
Bởi vậy nhũng ai có sạn thận không nên uống cà-phê nhiều quá 2 ly, tức là không quá 16 ounces cà-phê mỗi ngày.
(Bàn thêm: Trước đây đã từng có những thử nghiệm cho thấy khi bệnh nhân uống caffeine nhưng nếu calcium bài tiết tăng cao trong nước tiểu sẽ giảm nguy cơ thành lập sạn thận.
Thử nghiệm ở trên xác định uống quá 2 ly cà-phê với hơn 16 ounces cà-phê sẽ tăng cao lượng calcium trong nước tiểu và tăng cao nguy cơ thành lập sạn thận.
Phần lớn trong sạn thận chứa nhiều calcium oxalate. Một số chất khác cũng thấy trong sạn thận như uric acid, struvite và cysteine.
Phụ nữ ăn uống nhiều đồ ăn chứa calcium như sữa, phó mát, yogurt giảm nguy cơ thành lập sạn thận, 27%.Ăn nhiều loại hạt hay rau chứa nhiều chất phytate giảm nguy cơ thành lập sạn thận, 37%.
Uống nhiều nước cũng giảm nguy cơ thành lập sạn thận.
Ăn nhiều đường tăng nguy cơ thành lập sạn thận, 30%. Ăn thịt hay uống thuốc có chất vôi dường như không ảnh hưởng nguy cơ thành lập sạn thận.
Dựa theo những kết quả kể trên thì những bệnh nhân lớn tuổi khi phải uống thuốc có chất vôi để chữa và ngừa bệnh loãng xương chẳng nên ngần ngại, vì những thuốc có chất Calcium không gây nguy cơ sạn thận.). Journal of Urology, August 2004.
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; E-mail: nmtran@hotmail.com; Điện Thoại: (714) 547-3915; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.