Hôm nay,  

Câu Chuyện Y Sinh Học: Ung Thư, Mập Phì, DNA...

07/05/201100:00:00(Xem: 10924)

Câu Chuyện Y Sinh Học: Ung Thư, Mập Phì, DNA...

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô

EGFR và ung thư. Bs Avaniyapuram Kannan Murugan và các đồng nghiệp đã tìm hiểu hiện tượng đột biến của một số di thể như GNAQ, MMP8, AKT3, EGFR, và PIQ3R1 trong ung thư tuyến giáp trạng. Kết quả tường trình trong điện báo Endocrine Pathology, 18 April 2011 cho biết khoảng 5% di thể EGFR đột biến trong ung thư tuyến giáp trạng (papillary thyroid cancer).

Đột biến EGFR (epidermal growth factor receptor) thấy trong cơ thể con người còn có tên là ErbB-1; HER1, là một thụ thể thấy ngoài màng tế bào (cell surface receptor).

Trong điện báo Cancer Cytology ngày 11 tháng 03, 2011, Bs Shareen Billard và các cộng sự viên cho biết di thể EGFR và KRAS đột biến trong ung thư phổi (non-small cell lung carcinoma) và khuyến cáo nên thử nghiệm lâm sàng đột biến di thể EGFR hay di thể KRAS.

Trong bản tin Internal Medicine 15 tháng 04, 2011, Hội American Society of Clinical Oncology và National Comprehensive Medical Network khuyến cáo thử nghiệm đột biến di thể EGFR có thể coi như bước đầu quan trọng trong việc định giá điều trị ung thư phổi (non-small cell) di căn hay tái phát. Bệnh nhân ung thư phổi nặng (non-small cell lung cancer) trước khi được điều trị dùng một trong những loại tyrosine kinase inhibitors, loại thuốc nhắm vào kìm hãm EGFR, thì cần thử nghiệm đột biến EGFR.

Liên hệ Oxýt hoá Nitric và Mập phì ở trẻ em. Bs Codoner-Franch và các đồng nghiệp phổ biến kết quả nghiên cứu cho biết hiện tượng oxýt hoá Nitric tăng cao ở trẻ em mập phì. Có liên hệ giữa hiện tượng oxýt hoá Nitric và những thông số của cơ thể như bụng mập phì, cường độ oxýt hoá (oxidative stress) và những dấu ấn viêm trong cơ thể.

Nitric Oxide còn gọi là Nitrogen monoxide là một hoá chất có công thức hoá học là NO. Tăng biểu hiện NO lâu dài liên hệ ung thư và những điều kiện viêm thường thấy ở bệnh tiểu đường trẻ em, bệnh xơ cứng (multiple sclerosis), phong thấp (arthritis) và viêm lở loét ruột kết mạc (ulcerative colitis).

Oxýt hoá làm hư hại DNA và mập phì bệnh nhân tiểu đường loại 2. Bs Hayder Al-Aubaidy và Bs Herbert Jelinek vừa phổ biến kết quả nghiên cứu hiện tượng oxýt hoá làm hư hại DNA, bệnh tiền tiểu đường và tiểu đường loại 2. Kết quả nghiên cứu cho biết mức 8-OHdG (8-hydroxy-2-deoxy-guanosine) bệnh nhân tiền tiểu đường tăng cao trong huyết thanh. Tăng cao 8-OHdG là tăng cao hiện tượng oxýt hoá làm hư hại DNA trong trường hợp bệnh nhân tiền tiểu đường có mức đường glucose tăng nhẹ trong máu. Kết quả khuyến cáo có sự liên hệ giữa chất 8-OHdG với chỉ số trọng khối cơ thể (BMI, body mass index), và mập phì với mức đường cao trong máu và hiện tượng oxýt hoá làm hư hại DNA. 8-OhdG là một sản phẩm do oxýt hoá chất deoxyguanosine. Đo lượng 8-OhdG trong tế bào là đo mức oxýt hoá (oxydative stress) trong tế bào.

Dấu ấn FGFR1 và mập phì. Bs Hong Jiao và các cộng sự viên tìm hiểu FGFR1 có phải là di thể nguyên bào sợi (fibroblast) liên hệ bệnh mập phì. Thử nghiệm chuột cho thấy FGFR1 là một di thể của mập phì ảnh hưởng mô mỡ và kiểm soát tuyến não thùy khi nếm đồ ăn.

FGFR1 (Fibroblast growth factor receptor 1) là thụ thể 1 trong yếu tố căn bản của nguyên bào sợi, liên hệ chất Tyrosine kinase trong hội chứng Pfeiffer. Pfeiffer là một bệnh di truyền ở trẻ em sơ sinh khi những mảnh xương sọ sớm dính lại vơí nhau (craniocynostosis). Cứ khoảng 100 ngàn trẻ sơ sinh lại có 1 em bị hội chứng Pfeìffer.

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô, Xin mời quý đôc giả ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay, một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cứ bốn năm ngàn bé trai ra đời là có một bé bị một chứng bệnh di truyền làm chúng bại liệt, yếu dần và tử vong sớm. Ngày 22 tháng 6, 2023 Cơ quan quản trị thực phẩm và thuốc của Hoa Kỳ FDA chuẩn thuận một trị liệu dùng gen (di thể) mới nhất, với giá cao chưa từng thấy là trên 3 triệu đô la cho mỗi liều thuốc (may mắn là chỉ cần một liều duy nhất). Trước hết chúng ta bàn về bệnh này. Tên của bệnh là “loạn dưỡng cơ Duchenne” dịch từ danh từ khoa học quốc tế: tiếng Anh là Duchenne Muscular Dystrophy (DMD). Duchenne là tên của một bác sĩ chuyên khoa thần kinh tiên phong thế kỷ thứ 18 công bố về bịnh này (sau vài người khác) và bs đầu tiên làm sinh thiết (biopsy) các cơ bắp trong những đứa trẻ bị liệt trong bịnh này.
Một loại thuốc hứa hẹn mới sẽ là phương pháp đầu tiên trên thế giới giúp người lớn có thể mọc lại răng một cách tự nhiên, hoặc giúp trẻ em mắc chứng “anodontia” bẩm sinh có thể mọc răng như bình thường. Nghiên cứu mới do các khoa học gia tại Trường Kyoto và Trường Fukui thực hiện, dẫn đầu bởi Katsu Takahashi. Ông cho biết: “(Phương pháp) làm mọc răng mới là giấc mơ của mọi nha sĩ. Tôi đã nghiên cứu nó từ khi còn là sinh viên. Tôi tin rằng mình có thể làm được điều đó.”
Hiện nay, có khoảng 10% người dân Hoa Kỳ mắc bệnh ù tai (tinnitus) dạng nặng. Chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi trong tai luôn có tiếng ù ù và o o dù không có bất kỳ tác động nào từ môi trường bên ngoài. Tuy nhiên, giờ đây, những người bị ù tai sẽ có thêm niềm hy vọng, bởi sắp có một phương pháp điều trị kết hợp sử dụng âm thanh và kích thích điện từ.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ nhanh hơn sự ứng đối của con người như hiện nay không ít người quan ngại về nguy cơ các sản phẩm trí thông minh nhân tạo có thể thoát khỏi tầm kiểm soát của con người. Điều trớ trêu là sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật cũng từ con người mà ra. Hay nói cách khác, chính con người là tác nhân của các sản phẩm khoa học kỹ thuật tân tiến đó lại lo ngại tạo vật của mình. Tuy nhiên, thực tế còn có một nghịch lý khác, đó là cho đến ngày nay, con người thông qua sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật vẫn chưa biết rõ, hay nói chính xác hơn là vẫn chưa chứng minh được bằng phương thức khoa học khách quan ai là tác nhân thực sự của các sản phẩm khoa học kỹ thuật tân tiến đó: tâm trí hay não bộ hay cả hai?
Là cơ quan lớn nhất của cơ thể, da luôn cần được giữ cho khỏe mạnh và sạch sẽ. Thêm vào đó, một làn da khỏe đẹp luôn hấp dẫn trong mắt mọi người và là điều mà bất kỳ ai cũng muốn sở hữu. Ngành chăm sóc da (skincare) đã bùng nổ, đạt giá trị 133.9 tỷ MK vào năm 2018, và dự kiến sẽ đạt mức 200.25 tỷ MK vào năm 2026. Danh sách các sản phẩm chăm sóc da thì ngày càng dài ra với vô số thành phần gây tranh cãi. Thật khó để tìm ra những gì làn da của chúng ta thật sự cần. Trong bài này, các chuyên gia sẽ giải thích cách làn da bảo vệ chúng ta, cách giữ gìn da dẻ và những thói quen tốt đối với làn da của quý vị.
Bờ Tây Hoa Kỳ đang ở trong một tuần lễ nhiệt độ tăng cao, và các nhà dự báo thời tiết hôm đầu tuần đã cảnh báo nhiệt độ vào cuối tuần này sẽ lên quá cao tại một số khu vực đông dân cư nhất ở Arizona, đồng thời cảnh báo cư dân ở các vùng của Nevada và New Mexico nên ở trong nhà tránh nhiệt.
Bước tiến lớn tiếp theo trong điều trị ung thư có thể là vắc xin. Sau nhiều thập niên miệt mài làm việc, các khoa học gia cho biết nghiên cứu đã đạt đến một bước ngoặt quan trọng, dự đoán sẽ có thêm nhiều loại vắc xin trong 5 năm tới. Tuy nhiên, đây không phải là những loại vắc xin truyền thống giúp ngăn ngừa bệnh tật, mà là những mũi tiêm để giúp thu nhỏ khối u và ngăn chặn ung thư tái phát. Các phương pháp điều trị thử nghiệm này nhắm mục tiêu vào những loại ung thư như ung thư vú và ung thư phổi, nhưng cũng đã có một số thành tựu đối với ung thư tế bào hắc tố (melanoma) và ung thư tụy tạng được thử nghiệm trong năm nay.
Đa xơ cứng, (Multiple Sclerosis, MS), là một bệnh thần kinh thường bắt đầu ở độ tuổi từ 20 đến 40. Bệnh này phổ biến ở phụ nữ hơn ở nam giới. Bệnh đa xơ cứng xảy ra do hệ thống miễn dịch rối loạn tấn công nhầm vào não và tủy sống. Mặc dù có những điều trị mới và hiệu quả hơn, hầu hết những người bị chứng bệnh này vẫn ngày càng bệnh nặng hơn theo thời gian.
Quý vị có thường bị đau lưng mỗi khi bị cúm, cảm lạnh, hay khi bị COVID? Đau lưng là triệu chứng khá phổ biến ở nhiều loại bệnh. Nó không phải là một triệu chứng kiểu hên xui, mà là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa hệ thống miễn dịch và não, được gọi là “khớp thần kinh miễn dịch” (neuroimmune synapse). Khi ta bị bệnh, kết quả của ‘cuộc trò chuyện’ giữa hệ thống miễn dịch và não bộ khá là thú vị, bởi vì sự chú ý sẽ được tập trung đặc biệt ở vùng lưng dưới. Đây là một trong những vùng nhạy cảm nhất của cơ thể trước các mối đe dọa đối với miễn dịch thần kinh (neuroimmune).
Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, người Việt Nam tạo nên một cộng đồng hải ngoại chừng trên 4 triệu người, tương đương với dân số của New Zealand. Cuộc bùng nổ dân số ra hải ngoại này cũng gây nhiều ly tán, con cái thất lạc cha mẹ. Nhờ các tiến bộ về công nghệ gien và DNA chúng ta được chứng kiến những cuộc tái ngộ, đoàn tụ tưởng như không bao giờ có được, đặc biệt là những người con lai “mồ côi” tìm lại được người cha quân nhân Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam sau gần 50 năm. Chúng ta thử tìm hiểu những tiến bộ về lĩnh vực thử máu hay DNA để thiết lập quan hệ cha-con trên bình diện sinh học.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.