Cơ Quan Phòng Ngừa Y Tế Hoa Kỳ vừa đưa ra những khuyến cáo giúp phòng ngừa bệnh lậu (gonorrhea).
Phụ nữ bị bệnh lậu, mặc dầu không có triệu chứng gì nhưng có thể gây nhiều nguy hại như: viêm vùng chậu, có thai ngoài tử cung, và đau vùng xương chậu kinh niên. Phụ nữ co’ thai bị bệnh lậu dễ bị đẻ non, bể nước đầu ối sớm hơn bình thường, và dễ bị viêm nhau. Phụ nữ chưa có thai nhưng nếu sớm điều trị bệnh lậu sẽ tránh được những biến chứng như đẻ non và viêm nhau. Đối với đàn ông thì khi bị bệnh lậu thường phát hiện triệu chứng, nhưng đôi khi bị lậu không có triệu chứng.
Ngày nay bệnh lậu ít sẩy ra ở Mỹ và bệnh viêm mắt trẻ em do vi trùng lậu cũng không còn nhiều ở Mỹ. Tuy nhiên cần phải nhỏ thuốc ngừa chữa vi trùng lậu vào mắt cho trẻ em. Phụ nữ hay thanh niên tuổi khoảng 25 hay trẻ bị nguy cơ bênh lậu cao nhất ở Mỹ.
Nguy cơ bị lậu là do trước đây bệnh nhân đã từng bị bệnh lậu, hay lậu xuất hiện cùng một lúc với những bệnh tình dục khác hay bị truyền bệnh do những người phối ngẫu mới hoặc có nhiều phối ngẫu cùng một lúc. Bệnh nhân thường không chịu đeo áo mưa khi giao hợp hay ghiền ma túỵ. Đối với phụ nữ lần đầu tiên khám thai là phải truy tầm bệnh lậụ. Đàn bà có bầu trong tam cá nguyệt thứ 3 cũng nên thử nghiệm truy tầm vi trùng lậu. Bình thường khi khám tử cung cần truy tầm vi trùng lậu.
Hiện nay có nhiều phương pháp thử nghiệm mới truy tầm vi trùng lậu như “nucleic acid amplification tests” hay “nucleic acid hybridization tests” khá bén nhạy so với phương pháp cấy vi trùng lậu cũ trước đâỵ. Phương pháp mới có thể thử thẳng vào nước tiểu hay huyết trắng bệnh nhân, cho nên không cần thiết phải khám tử cung phụ nữ. Bác sĩ phải tường trình cho Cơ Quan y tế biết khi bệnh nhân bị bệnh lậu. (American Academy of Family Physicians, November 1, 2005)
Bộc Phát Bệnh Giang Mai Là Do Tình Trạng Yếu Miễn Dịch Của Bệnh Nhân.
Ngày January 26, 2005, một tường trình dịch tễ học xuất bản trong báo Y Khoa Nature đưa ra. Nghiên cứu xác suất trong 68 thành phố tại Mỹ cho thấy bệnh giang mai (syphilis) lên xuống theo chu kỳ. Song song nghiên cứu bệnh giang mai và bệnh lậu (gonorrhea) trong 68 thành phố ở Mỹ thì bệnh lậu không lên xuống thay đổi giống bệnh giang mai. Bộc phát bệnh giang mai theo chu kỳ hay thời gian không phải do luyến ái kém an toàn trong tình trạng đồng tính luyến ái. Cũng không phải vì thiếu an toàn trong lúc tình dục. Theo các tác giả thì thay đổi tình trạng miễn dịch ảnh hưởng bệnh giang mai và không ảnh hưởng bệnh lậụ. Dường như chu kỳ bộc phát bệnh giang mai ở Mỹ là do tình trạng giảm miễn dịch của bệnh nhân. (Nature, January 26, 2005). (Bàn thêm: Giang mai là bệnh truyền nhiễm qua ngả tình dục. Người Việt đã biết bệnh giang mai từ rất lâu. Giang mai do vi trùng cựa quậy tên là Treponema Pallidum. Vi trùng T. Pallidium truyền nhiễm khi đụng vào máu hay vết trầy của bệnh nhân giang mai, đặc biệt ở những vùng mồm miệng, dương vật, âm hộ hay hậu môn. Trong giai đoạn I, triệu chứng khi người đàn ông bắt đầu bị bệnh giang mai là thấy đau ở dương vâ.t. Người đàn bà thì thấy đau vùng cửa mình hay âm hộ. Bình thường thì vết đau tự biến đi trong 3-6 tuần lễ. Nếu không sớm điều trị thì vi trùng sẽ lan vào máu (Giai đoạn II), từ đó gây ra những triệu chứng như nổi mẩn trong người, đặc biệt 2 bàn chân và bàn taỵ. Những triệu chứng khác của giang mai như đau cổ họng, nóng hay nổi ha.ch. Có trường hợp không phát hiện triệu chứng nhưng vi trùng vẫn tồn tại trong cơ thể. Khi giang mai ở giai đoạn III thì bệnh nhân có thể tử vong. Vi trùng T. Pallidium xâm nhập vào xương hay các cơ quan khác trong cơ thể, như tim mạch, đặc biệt động mạch chủ hay làm thoái hóa van tim. Khi vi trùng vào hệ thống thần kinh thì gây tê liệt.
Ngày xưa ở VN, bệnh nhân trong giai đoạn III giang mai bị hư van tim động mạch chủ hay tê liệt thần kinh thường thấy trong Khu Nội Thương Bệnh Viện Chợ Rẫy. Khi bệnh giang mai phát hiện vào thế kỷ 17, thì y sĩ dùng thủy ngân (mercury) để điều trị giang mai. Ở VN cũng trong thơì Pháp Thuộc, tức là trước năm 1945, y khoa Pháp vẫn dùng thủy ngân để điều trị giang mai. Đầu thập niên 1900, nhiều hóa chất đã được dùng để chữa giang mai như Potassium Iodide, Arsenic, chất bạc Silver Bullet. Trụ sinh Penicillin do khoa học gia Alexander Fleming khám phá năm 1929. Cho tới bây giờ tức là cả 3/4 thế kỷ, y khoa vẫn dùng Penicillin để trị giang mai và ngạc nhiên hơn nữa là chỉ cần chích một mũi thuốc. Điều này nói lên ý nghĩ vi trùng T. Pallidium hầu như ít bị đề kháng trụ sinh như Penicillin).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/; www.KhoaHoc.Net
Phụ nữ bị bệnh lậu, mặc dầu không có triệu chứng gì nhưng có thể gây nhiều nguy hại như: viêm vùng chậu, có thai ngoài tử cung, và đau vùng xương chậu kinh niên. Phụ nữ co’ thai bị bệnh lậu dễ bị đẻ non, bể nước đầu ối sớm hơn bình thường, và dễ bị viêm nhau. Phụ nữ chưa có thai nhưng nếu sớm điều trị bệnh lậu sẽ tránh được những biến chứng như đẻ non và viêm nhau. Đối với đàn ông thì khi bị bệnh lậu thường phát hiện triệu chứng, nhưng đôi khi bị lậu không có triệu chứng.
Ngày nay bệnh lậu ít sẩy ra ở Mỹ và bệnh viêm mắt trẻ em do vi trùng lậu cũng không còn nhiều ở Mỹ. Tuy nhiên cần phải nhỏ thuốc ngừa chữa vi trùng lậu vào mắt cho trẻ em. Phụ nữ hay thanh niên tuổi khoảng 25 hay trẻ bị nguy cơ bênh lậu cao nhất ở Mỹ.
Nguy cơ bị lậu là do trước đây bệnh nhân đã từng bị bệnh lậu, hay lậu xuất hiện cùng một lúc với những bệnh tình dục khác hay bị truyền bệnh do những người phối ngẫu mới hoặc có nhiều phối ngẫu cùng một lúc. Bệnh nhân thường không chịu đeo áo mưa khi giao hợp hay ghiền ma túỵ. Đối với phụ nữ lần đầu tiên khám thai là phải truy tầm bệnh lậụ. Đàn bà có bầu trong tam cá nguyệt thứ 3 cũng nên thử nghiệm truy tầm vi trùng lậu. Bình thường khi khám tử cung cần truy tầm vi trùng lậu.
Hiện nay có nhiều phương pháp thử nghiệm mới truy tầm vi trùng lậu như “nucleic acid amplification tests” hay “nucleic acid hybridization tests” khá bén nhạy so với phương pháp cấy vi trùng lậu cũ trước đâỵ. Phương pháp mới có thể thử thẳng vào nước tiểu hay huyết trắng bệnh nhân, cho nên không cần thiết phải khám tử cung phụ nữ. Bác sĩ phải tường trình cho Cơ Quan y tế biết khi bệnh nhân bị bệnh lậu. (American Academy of Family Physicians, November 1, 2005)
Bộc Phát Bệnh Giang Mai Là Do Tình Trạng Yếu Miễn Dịch Của Bệnh Nhân.
Ngày January 26, 2005, một tường trình dịch tễ học xuất bản trong báo Y Khoa Nature đưa ra. Nghiên cứu xác suất trong 68 thành phố tại Mỹ cho thấy bệnh giang mai (syphilis) lên xuống theo chu kỳ. Song song nghiên cứu bệnh giang mai và bệnh lậu (gonorrhea) trong 68 thành phố ở Mỹ thì bệnh lậu không lên xuống thay đổi giống bệnh giang mai. Bộc phát bệnh giang mai theo chu kỳ hay thời gian không phải do luyến ái kém an toàn trong tình trạng đồng tính luyến ái. Cũng không phải vì thiếu an toàn trong lúc tình dục. Theo các tác giả thì thay đổi tình trạng miễn dịch ảnh hưởng bệnh giang mai và không ảnh hưởng bệnh lậụ. Dường như chu kỳ bộc phát bệnh giang mai ở Mỹ là do tình trạng giảm miễn dịch của bệnh nhân. (Nature, January 26, 2005). (Bàn thêm: Giang mai là bệnh truyền nhiễm qua ngả tình dục. Người Việt đã biết bệnh giang mai từ rất lâu. Giang mai do vi trùng cựa quậy tên là Treponema Pallidum. Vi trùng T. Pallidium truyền nhiễm khi đụng vào máu hay vết trầy của bệnh nhân giang mai, đặc biệt ở những vùng mồm miệng, dương vật, âm hộ hay hậu môn. Trong giai đoạn I, triệu chứng khi người đàn ông bắt đầu bị bệnh giang mai là thấy đau ở dương vâ.t. Người đàn bà thì thấy đau vùng cửa mình hay âm hộ. Bình thường thì vết đau tự biến đi trong 3-6 tuần lễ. Nếu không sớm điều trị thì vi trùng sẽ lan vào máu (Giai đoạn II), từ đó gây ra những triệu chứng như nổi mẩn trong người, đặc biệt 2 bàn chân và bàn taỵ. Những triệu chứng khác của giang mai như đau cổ họng, nóng hay nổi ha.ch. Có trường hợp không phát hiện triệu chứng nhưng vi trùng vẫn tồn tại trong cơ thể. Khi giang mai ở giai đoạn III thì bệnh nhân có thể tử vong. Vi trùng T. Pallidium xâm nhập vào xương hay các cơ quan khác trong cơ thể, như tim mạch, đặc biệt động mạch chủ hay làm thoái hóa van tim. Khi vi trùng vào hệ thống thần kinh thì gây tê liệt.
Ngày xưa ở VN, bệnh nhân trong giai đoạn III giang mai bị hư van tim động mạch chủ hay tê liệt thần kinh thường thấy trong Khu Nội Thương Bệnh Viện Chợ Rẫy. Khi bệnh giang mai phát hiện vào thế kỷ 17, thì y sĩ dùng thủy ngân (mercury) để điều trị giang mai. Ở VN cũng trong thơì Pháp Thuộc, tức là trước năm 1945, y khoa Pháp vẫn dùng thủy ngân để điều trị giang mai. Đầu thập niên 1900, nhiều hóa chất đã được dùng để chữa giang mai như Potassium Iodide, Arsenic, chất bạc Silver Bullet. Trụ sinh Penicillin do khoa học gia Alexander Fleming khám phá năm 1929. Cho tới bây giờ tức là cả 3/4 thế kỷ, y khoa vẫn dùng Penicillin để trị giang mai và ngạc nhiên hơn nữa là chỉ cần chích một mũi thuốc. Điều này nói lên ý nghĩ vi trùng T. Pallidium hầu như ít bị đề kháng trụ sinh như Penicillin).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/; www.KhoaHoc.Net
Gửi ý kiến của bạn