Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Tiến Bộ Của Phẫu Thuật

16/10/200900:00:00(Xem: 6432)

Câu Chuyện Thầy Lang: Tiến Bộ Của Phẫu Thuật

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Giải Phẫu là thủ thuật để trị bệnh hoặc nghiên cứu cơ thể theo phương pháp y học bằng cách rạch, cắt một bộ phận với dao kéo hoặc để khâu vá kín một vết thương mở rộng.
Với mục đích đó, giải phẫu được áp dụng từ thuở xa xưa.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở Ukraine, Peru những sọ người tiền sử mang những lỗ khoan (trepanation) trên sọ mà không đụng chạm tới màng não, với mục đích loại bỏ bệnh tật do tà ma xâm nhập, chữa chấn thương não bộ hoặc chữa nhức đầu, kinh phong, tâm bệnh. Khoan sọ là phẫu thuật kỳ diệu nhất trong lịch sử giải phẫu, tồn tại tới thời Trung Cổ và được thực hiện với một con dao, một miếng đá hoặc một mảnh đồng sắc bén. Ngày nay, khoan sọ đôi khi cũng còn được dùng.
Cắt bao da quy đầu (circumcision) được thực hiện từ 2400-3000 năm trước công nguyên đối với các tu sĩ, nhân viên hoàng gia vì lý do vệ sinh hoặc một nghi lễ tôn giáo ở châu Phi, nam Á châu và Do Thái Giáo. Đây là một phẫu thuật có tính cách lựa chọn (selective surgery) khá sớm.
Y sĩ Hy Lạp Claudius Galen (130-200AD) được coi như có bàn tay tuyệt hảo trong việc mổ xẻ cơ thể để chữa bệnh cũng như nghiên cứu cấu tạo, chức năng các cơ quan. Ông đã dùng vết thương cơ thể như cánh cửa sổ để tìm hiểu về sự cấu tạo con người. 
 Một điều mà có lẽ ít người để ý là vào thời Trung Cổ bên Âu châu (từ 1100-1400 sau công nguyên), công việc mổ xẻ, chữa bệnh bằng dao kéo lại do mấy vị “thợ hớt tóc” đảm trách. Trước đó, việc trị bệnh ưu tiên dành cho các tu sĩ. Để các thầy thuốc tu sĩ không đụng chạm tới máu, Đức Giáo Hoàng ra lệnh không cho họ được làm công việc mổ xẻ. Việc mổ xẻ chữa bệnh được giao cho giới “thợ cạo”, dưới sự giám thị của tu sĩ,  vì họ khéo tay khéo chân, quen sử dụng dao, kéo “gọt đầu, xén tóc”. Vào thập niên 1540, vua Henri VIII sát nhập Hội Giải phẫu với Đoàn Hớt Tóc để thành lập Đoàn Hớt Tóc- Giải phẫu. Các phẫu thuật gia- thợ hớt tóc (baber-surgeons) này tổ chức thành hội chuyên nghiệp và tồn tại tới  thế kỷ 18. Họ không có huấn luyện y khoa, thường được giao phó chăm sóc thương binh trong chiến tranh, lấy máu cũng như lưu ngụ tại các lâu đài để phục vụ các vị chủ nhân danh gia, vọng tộc.
Một barber-surgeon nổi tiếng, đã đóng góp rất nhiều cho nền y khoa là Ambroise Pare (1510-1590), người Pháp.
Từ một thanh niên ít học vấn, tập sự hớt tóc tại một tỉnh lỵ nhỏ ở Pháp rồi trở thành học viên giải phẫu tại bệnh viện Hotel Dieu, Paris, ông đã tận dụng sự khéo tay của mình để chăm sóc thương bệnh binh cũng như tìm kiếm các phương pháp băng bó, khâu vá vết thương. Sau nhiều năm nghiên cứu, ông để lại nhiều tác phẩm giá trị về giải phẫu và được coi như cha đẻ của phẫu thuật hiện đại.
Ngày nay, giải phẫu là một chuyên ngành y khoa liên quan tới việc mổ bệnh nhân để chẩn bệnh, trị bệnh và chữa lành các bệnh cũng như những hoàn cảnh bất thường.
Giải phẫu có nhiều ngành khác nhau tùy theo từng bộ phận của cơ thể.
Sau khi tốt nghiệp với văn bằng tiến sĩ y khoa, các vị này học vể giải phẫu tổng quát rồi tiếp tục được huấn luyện chuyên ngành. Có bác sĩ chuyên mổ về xương, lồng ngực, tim phổi, thần kinh, thẩm mỹ cũng như sản phụ khoa, tai mũi họng…
Thường thường giải phẫu gia được các bác sĩ gia đình chăm sóc ban đầu giới thiệu bệnh nhân tới vì nhu cầu trị liệu. Họ khám rồi chẩn đoán bệnh, đưa ra các phương thức trị liệu để cùng bệnh nhân thảo luận, lựa chọn. Họ đứng mổ nhiều giờ trong phòng giải phẫu và làm việc chung với nhiều chuyên viên khác như chuyên viên thuốc mê, điều dưỡng, phụ mổ… để công việc được hoàn hảo.
Các phẫu thuật gia cũng nghiên cứu để tìm ra các phương pháp mổ xẻ hữu hiệu, ít đau đớn, ít biến chứng cho bệnh nhân cũng như giản dị khi thực hiện.
Các loại phẫu thuật
Phẫu thuật được chia làm nhiều loại, tùy theo mục đích, mức độ lớn nhỏ cũng như mức độ trầm trọng của bệnh
1-Tùy theo mức độ lớn nhỏ
-Đại giải phẫu là các phương thức mổ xẻ lan rộng, xâm lấn (invasive) liên can tới các bộ phận cơ thể lớn và quan trọng với khả năng mất nhiều máu và có biến chứng. Như là mổ tim, cắt ung thư phổi…
-Tiểu giải phẫu, ít lan rộng (less invasive), không liên can tới các bộ phận, ít chảy máu và biến chứng. Chẳng hạn rạch u nhọt, khâu vết đứt trên da.
2-Tùy theo mục đích
-Để điều trị như là cắt bỏ một bộ phận đã bị hư hao hoặc gây ra bệnh cho cơ thể.
-Để giảm dấu hiệu triệu chứng bệnh.
-Để tái tạo một bộ phận hoặc phần cơ thể bị đổi hình dạng.
-Để chẩn đoán hoặc tìm nguyên nhân gây bệnh.
-Để làm đẹp hình dáng.
3-Tùy theo tình trạng bệnh
-Cấp cứu tức thì (emergency), cần giải phẫu ngay để cứu sống người bệnh. Chẳng hạn trong tai biến động mạch não do cục máu thì phải giải phẫu ngay để loại bỏ nguyên nhân gây ra tử vong tế bào não bộ. Hoặc ruột dư cần giải phẫu ngay để tránh bể vỡ, gây nhiễm trùng tổng quát.
-Khẩn cấp (urgent) giải phẫu càng sớm càng tốt trong một khoảng thời gian nào đó
-Giải phẫu không cấp thiết (Elective surgery), được dự trù trước, không có tính cách cấp cứu, thời gian thực hiện tùy theo sự lựa chọn của bác sĩ và người bệnh. Thí dụ giải phẫu sửa sa ruột (hernia), cắt bỏ túi mật (cholecystectomy), thay khớp xương háng (hip replacement).
Giải phẫu thẩm mỹ với mục đích làm tăng vẻ đẹp ngoại hình hoặc vị thế xã hội cũng thuộc loại này, tức là không có mục tiêu trị liệu. Chẳng hạn tẩy nốt ruồi, xóa bỏ vết nhăn trên mặt.
-Giải phẫu do y giới chỉ định (Recommended surgery) có thể là khẩn cấp (ruột dư) hoặc cần thiết vì nếu không thực hiện sẽ gây ra hậu quả trầm trọng.
Phương pháp giải phẫu
1-Phẫu thuật cổ điển (Classic surgery)
Phương pháp thường được thực hiện qua vết rạch trên da, thịt, rồi đi vào cơ quan bộ phận bị bệnh.
Phương pháp đã được áp dụng từ thuở xa xưa và đã đóng góp rất nhiều trong việc trị bệnh, đặc biệt là khi các phương thức khác thất bại. Tuy nhiên, phương pháp cũng có mấy rủi ro, cần biết để phòng tránh biến chứng trầm trọng, “lợn lành chữa thành lợn què”. Chẳng hạn:
-Giải phẫu lớn thường cần gây mê để bệnh nhân không cảm thấy đau. Nhưng gây mê mà không được theo dõi, thực hiện chu đáo có thể khiến tim phổi ngưng hoạt động trong khi mổ.


-Mặc dù đã đề phòng, nhiễm trùng vết mổ hoặc sưng phổi là chuyện có thể xảy ra tại bệnh viện sau giải phẫu.
-Khi rạch mổ qua thịt da là phải có chảy máu, vết mổ có thể lâu lành, để lại vết sẹo khó coi.
-Khó thở sau giải phẫu
-Tăng rủi ro tuần hoàn khi bệnh nhân có bệnh tim mạch.
2-Giải phẫu với rất ít xâm lấn (minimally invasive surgery)
Trong phẫu thuật này, vết cắt trên da rất nhỏ, vừa đủ để đưa một bộ phận của dụng cụ giải phẫu vào cơ thể, do đó bệnh nhân ít đau, vết thương mau lành, sẹo nhỏ, ít chẩy máu, ít nhiễm trùng, biến chứng. Bệnh nhân có thể sớm rời bệnh viện và trở lại sinh hoạt hàng ngày.
Một thí dụ là phép soi ổ bụng (Laparoscopic surgery) để quan sát các cấu trúc trong ổ bụng như noãn sào …. Một dụng cụ hình ống có đèn chiếu sáng được đưa vào một vết rạch nhỏ trên thành bụng qua đó phẫu thuật được thực hiện.
Một trở ngại của phương pháp là khoảng không gian mổ quá nhỏ khiến cho “đường dao” các thao tác của phẫu thuật gia bị giới hạn. Tuy nhiên, trăm hay không bằng tay quen, phẫu thuật gia kinh nghiệm vẫn có thể vượt qua.
3-Phẫu thuật không xâm lấn (Non-Invasive Surgery)
Gọi là non-invasive có nghĩa là phẫu thuật đi vào cơ thể mà không cần thông qua vết rạch trên da hoặc qua các lỗ thiên nhiên như mũi, miệng, âm hộ, hậu môn…
Một thí dụ là dùng tia Laser để tiêu hủy u bướu, mụn cóc, cục thịt non (mole), xóa vết nhăn da, tu sửa sự gồ ghề của giác mạc…Phương pháp có thể thực hiện với gây tê tại chỗ hoặc gây mê tổng quát.
3-Phẫu thuật không cần vết rạch trên da (Incisionless Surgery) hoặc phẫu thuật qua lỗ thiên nhiên (Natural Orifice Surgery)
Đây là một kỹ thuật tương đối mới mẻ, có chiều hướng ngày càng được nhiều bác sĩ áp dụng.
Thủ thuật được thực hiện thông qua các lỗ tự nhiên của cơ thể  như miệng, âm hộ, dương vật, hậu môn…chứ không qua vết rạch trên da.  Phương pháp có vẻ « thần sầu, quỷ cốc », chẳng khác ông Tề Thiên Đại Thánh tàng hình chui vào lỗ mùi đối phương, tới phổi tới tim mà đập phá, hủy hoại.
Một thí dụ :
Bệnh nhân cần cắt bỏ túi mật sẽ được nuốt một dụng cụ tự động xuống thực quản rồi dạ dày. Tới đây người máy đó sẽ được điều khiển để lách mình ra khỏi dạ dày, mò mẫm tới gan, làm công việc cắt bỏ túi mật rồi rút lui, an toàn trở ra khỏi miệng sau khi đã tu sửa vết thương ở dạ dày. Phẫu thuật hoàn tất, bệnh nhân không cảm thấy đau, ít chảy máu, nhiễm trùng, không có vết trên da, về nhà hân hoan vui vẻ với gia đình, nghỉ ngơi vài ngày rồi tiếp tục « lao động vinh quang », kiếm gạo. Phẫu thuật gia với tay nghề cao có thể điều khiển dụng cụ tự động đó một cách tuyệt hảo, chẳng khác chi mổ từ ngoài, qua da thịt.
4-Phẫu thuật « rỏm » (Sham Surgery)
Cũng như “thuốc vờ” (placebo medicine), placebo surgery đôi khi cũng được áp dụng để làm giảm đau ở một bệnh cứ than phiền mà mọi xét nghiệm không tìm ra bệnh. Chẳng hạn, kêu đau đầu gối. X-quang, xét nghiệm đều bình thường. Bác sĩ bèn đưa lên bàn mổ, gây mê, rạch da, loay hoay một lúc rồi đóng vết mổ, tuyên bố kết quả. Vậy mà nhiều bệnh nhân thấy dễ chịu hơn.
Phương pháp thường được dùng để kiểm chứng hiệu quả của vài kỹ thuật giải phẫu và cũng ân oán giang hồ vài xét đoán coi xem có vi phạm về phương diện y đức.
Một vài thắc mắc
1-Tại sao nhịn ăn trước khi mổ"
Phẫu thuật cần gây mê thường đưa tới nôn mửa. Nếu bệnh nhân ói trên bàn mổ thì chất ói có thể bị hút vào phổi, gây rủi ro hô hấp, có thể chết người. Vì thế thường thì không được ăn thực phẩm đặc 8 giờ trước mổ hoặc nhâm nhi chút nước trước 4 giờ.
2-Nằm bệnh viện bao lâu sau khi mổ"
Cách đây vài thập niên, sau một phẫu thuật trung bình, bệnh nhân thường nằm lại bệnh viện có khi cả dăm ba tuần lễ. Lý do là vết mổ lớn, kỹ thuật máy móc còn thô sơ, mất máu nhiều, rủi ro nhiễm trùng cao…cho nên cần ở lại bệnh viện một thời gian lâu hơn để hồi phục.
Ngày nay, dù là mổ tim, nối cầu động mạch (coronary bypass), bệnh nhân có thể về nhà sau vài ngày. Đó là nhờ kỹ thuật tân tiến, phương tiện hữu hiệu, chuyên viên được huấn luyện tới nơi tới chốn. Ngoài ra, theo nhiều nghiên cứu, bệnh nhân thưởng hồi phục mau hơn trong môi trường gia đình, thoải mái với sự chăm sóc, hiện diện của người thân.
Một lý do nằm viện ngắn hạn cũng vì sự tính toán lợi nhuận của các công ty bảo hiểm sức khỏe. Họ xét nét theo rõi ấn định thời gian nằm viện ngõ hầu khỏi phải trả quá nhiều tiền.
3-Làm sao lựa được nhà giải phẫu đáng tin cậy"
Bác sĩ gia đình là người hiểu rõ bệnh trạng của mình. Họ cũng là người mà mình có thể nhờ chọn lựa phẫu thuật gia thích hợp với nhu cầu. Chúng ta cũng có thể tìm hiểu thêm về các nhà chuyên môn này qua danh sách phẫu thuật gia tại các bệnh viện, các tổ chức bác sĩ giải phẫu.
Khi đã lựa được một bác sĩ đúng với nhu cầu, nên hẹn ngày tới thăm, nhớ mang đầy đủ hồ sơ sức khỏe.
Thảo luận, tìm hiểu mọi thắc mắc về phẫu thuật sẽ thực hiện, triển vọng lành bệnh, biến chứng hậu giải phẫu… kể cả chi phí y vụ, bảo hiểm trả bao nhiêu và phần mình chịu trách nhiều hay ít.
 Nếu chưa hoàn toàn thỏa mãn, có thể lấy ý kiến thứ hai (second opinion) với bác sĩ chuyên môn khác. Để bảo đảm phẫu thuật là trị liệu cần thiết có nhiều khả năng giúp lành bệnh. Tất nhiên là trong tình trạng cấp cứu, việc được giải phẫu càng sớm càng tốt quan trọng hơn là tuyển chọn bác sĩ.
Kết luận
Từ xưa tới nay, giải phẫu với các chuyên ngành nội khoa đều sánh vai để bảo vệ sức khỏe con người. Các bác sĩ đều cố gắng mang khả năng ra để phục vụ bệnh nhân. Vì phúc chủ, lộc thầy, đôi bên đều có phần lợi nhuận và cũng để khỏi đáo tụng đình, phân bua phải trái khi có sơ sót, lỗi lầm xảy ra.
Nhớ lại, đã có thời kỳ công lao của phẫu thuật gia được bồi hoàn khá nghiêm minh, đôi khi hơi quá mạnh tay: Nếu vị đó dùng dao chữa lành u mắt thì được thưởng 10 quan tiền. Nhưng nếu sơ ý, đường dao loạng quạng làm mù mắt bệnh nhân thì những ngón tay mổ bị cắt bỏ.
Ôn lại, thấy mà kinh. Nhưng cũng là bài học tốt cho những “lang băm”, bằng giả.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.